Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 10 tháng 3, 2009

boxit


Thành phố Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 3 năm 2009

Kính gửi: Ông NGUYỄN TẤN DŨNG , THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Thưa Ông Thủ tướng

Tôi là Phạm Đình Trọng, công dân Việt Nam, đang sống trên dải đất gấm vóc Việt Nam. Là người lính, tôi đã trải qua trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, tôi đã đi từ mảnh đất cực Bắc, Vị Xuyên tỉnh Hà Giang đến mảnh đất cực Nam của đất nước, đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu tỉnh Kiên Giang, tôi đã đi từ Trường Sơn đến Trường Sa. Dặm đường đất nước ấy đã cho tôi thấy đất nước Việt Nam thân yêu của tôi gấm vóc như thế nào.

Là nhà báo, nhà văn quân đội, tôi đã viết về sự hi sinh vô cùng to lớn của nhân dân và đồng đội của tôi trong cuộc kháng chiến chống Mĩ giành độc lập, thống nhất đất nước, tôi cũng đã viết về những mất mát hi sinh đau lòng mà đồng đội thân yêu của tôi đã phải nhận lấy để giữ từng mỏm đất ở Vị Xuyên, Hà Giang, để giữ từng doi cát san hô ở Trường Sa ngòai biển đông. Sự hi sinh cao cả ấy, máu của nhân dân và đồng đội tôi hôm nay, máu của cha ông chúng ta đã đổ ra trong suốt chiều dài lịch sử giữ nước hôm qua đã cho tôi thấy từng nắm đất của Tổ quốc Việt Nam thiêng liêng như thế nào! Nhưng những diễn biến của những năm tháng lịch sử vừa qua lại cho tôi thấy những người có trách nhiệm quản lí đất nước của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không những đã không giữ được trọn vẹn dải đất Việt Nam gấm vóc và thiêng liêng mà cả đến việc khai thác tài nguyên đất nước dường như cũng không vì lợi ích của đất nước Việt Nam, không vì nhân dân Việt Nam!

Dân biết. Dân bàn. Dân làm. Dân kiểm tra. Đó là điều nhà nước ta vẫn thường nói, vẫn đề cao. Là công dân Việt Nam, tôi cần được bàn, được có ý kiến về vấn đề nghiêm trọng này. Là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam, đảng cầm quyền, tôi càng cần có trách nhiệm, có tiếng nói về việc vô cùng hệ trọng này.

Định mệnh đã đặt đất nước chúng ta cạnh nước lớn phương bắc Trung Hoa, một đất nước mênh mông rộng lớn nhưng trập trùng núi hiểm, cuồn cuộn sông dữ, phần đất bằng còn lại thì nơi hạn hán đồng khô cỏ cháy, nơi lũ lụt lút cả huyện, cả tỉnh! Dân số lại quá đông, người dân khốn khó luôn đói đất, thèm đất làm ăn! Còn người cai trị đất nước mênh mông ấy thì từ xa xưa đến nay vẫn tự huyễn hoặc là Thiên tử, là con Trời, mang mệnh Trời thống trị thiên hạ, mở mang bờ cõi Trung Hoa! Suốt quá trình lịch sử, nước láng giềng khổng lồ phương Bắc ấy, thời nào, triều nào cũng lăm le lấn bờ, lấn cõi nước ta!

Dải đất Việt Nam gấm vóc còn được dài rộng đến hôm nay là nhờ lòng yêu nước nồng nàn, nhờ ý thức dân tộc sâu đậm, nhờ nền văn hóa Lạc Việt đã tạo ra cho người Việt bản sắc riêng không thể bị đồng hóa với những nền văn hóa khác, nhờ ý chí quật cường bất khuất, nhờ xương máu hi sinh của nhiều thế hệ người Việt đã đổ ra trong sự nghiệp giữ nước và điều quan trọng hàng đầu là nhờ người đứng đầu trăm họ người dân nước Việt đã đủ khôn khéo, tỉnh táo trong đối sách với mưu đồ lấn cõi, chiếm đất của phương Bắc, đã biết đặt lợi ích của dân tộc Việt Nam, đặt lợi ích của đất nước Việt Nam lên trên lợi ích riêng tư của vương triều.

Lịch sử đã dạy cho những triều đại phương Bắc hiểu rằng chiếm đất bằng sức mạnh của đội quân khổng lồ và thiện chiến không khó nhưng không bền! Vì đó là sự chiếm đọat phi pháp, sớm muộn người Việt, dù là dân tộc nhỏ bé nhưng có ý thức dân tộc rất cao và có lịch sử giữ nước rất anh hùng sẽ giành lại phần đất thiêng liêng bị mất. Trong lịch sử đã nhiều lần nhà nước khổng lồ phương Bắc chiếm được đất của nhà nước nhỏ bé phương Nam nhưng chưa lần nào họ nuốt trôi! Chỉ bằng cách ve vãn mua chuộc kẻ có quyền để có được những thỏa thuận kí kết nhượng đất, nhượng cõi rất đàng hòang, hợp pháp, họ mới nuốt trôi được mảnh đất cắt nhượng đó! Đó là khi người Pháp chiếm nước ta, triều nhà Thanh phương Băc liền kí với người Pháp hiệp ước Thiên Tân năm 1885, cho người Pháp chút lợi lộc buôn bán trên đất Trung Hoa để người Pháp cắt một số vùng đất Việt Nam ở biên giới phía Bắc cho nhà Thanh nhập vào các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông của Trung Hoa!

“Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào lại có thể vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì phải tội tru di!” Đó là lời chỉ dụ của vua sáng Lê Thánh Tông cho sứ thần nhà Lê đàm phán về cương vực lãnh thổ với sứ thần nhà Minh. Đó cũng là tiếng nói nghiêm khắc của lịch sử, của hồn thiêng sông núi Việt Nam với những người nắm quyền quản lí đất nước Việt Nam mọi thời đại!

Những người mang dòng máu con Hồng cháu Lạc ở cương vị quản lí đất nước trong quá khứ đều là những người khoa bảng, có đạo lí trung với nước, hiếu với dân, thông thuộc lịch sử nước nhà, có trí lự và khí phách dân tộc, họ đã kiên định tranh biện, không cho nước lớn lấn lướt, áp đặt, giữ được vẹn tòan đất đai gấm vóc nước Đại Việt. Còn chúng ta hôm nay thì sao?

Lịch sử ông cha để lại dạy chúng ta bài học là để dân tộc tồn tại, để đất nước vẹn tòan, phải đưa giá trị dân tộc lên trên hết, phải đòan kết thương yêu dân tộc, Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước phải thương nhau cùng! Nhưng hôm nay chúng ta đã làm ngược lại với điều cha ông đã dạy. Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm lí tưởng soi đường, lấy học thuyết đấu tranh giai cấp làm phương châm hành động, Quan san muôn dặm một nhà – Bốn phương vô sản đều là anh em! Chúng ta đã đưa giá trị giai cấp lên trên giá trị dân tộc! Người cùng dòng giống Lạc Hồng, rất mực yêu nước thương nòi, nhờ làm ăn lương thiện và hiệu quả mà có chút của ăn của để liền bị qui là giai cấp bóc lột, giai cấp đối kháng, trở thành kẻ thù của nhà nước công nông, bị xử lí tàn bạo! Nhưng năm 1958, khi nhà nước công nông Trung Hoa tuyên bố vùng biển của họ bao trùm cả quần đảo Hòang Sa, quần đảo Trường Sa của tổ tiên ta, với tinh thần quốc tế vô sản, Thủ tướng Phạm Văn Đồng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền có công hàm ủng hộ tuyên bố tham lam, bành trướng của nhà nước công nông phương Bắc!

Đưa giá trị giai cấp lên trên giá trị dân tộc làm cho ý thức dân tộc phai nhạt đi, làm dân tộc yếu đi! Dân tộc yếu đi thì tham vọng bành trướng sẽ lấn tới với đủ mưu chước, thủ đọan, phương thức lấn đất, lấn cõi. Miền Bắc nước ta vừa được giải phóng khỏi quân Pháp xâm lược, nước lớn phương Bắc liền sốt sắng ra tay hào hiệp nhận giúp Việt Nam khôi phục đường sắt Đồng Đăng – Hà Nội. Khi đó ở miền Bắc nước ta chỉ có nhà máy điện, nhà máy nước còn có thể cố ì ạch họat động, còn các nhà máy khác đều tanh bành, chưa thể khôi phục. Cả miền Bắc thất nghiệp! Lại thêm lực lượng lao động hùng hậu là cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết! Lực lượng lao động dư thừa nhưng với lòng tin tưởng và trân trọng tình cảm quốc tế vô sản, chúng ta đã mở rộng cửa ải phía Bắc đón hàng trăm công nhân đường sắt Trung Hoa vào Lạng Sơn làm công việc cơ bắp đơn giản là san nền đường, rải đá, đặt đường ray và những công nhân đường sắt Trung Hoa đã đưa chỗ nối ray của tuyến đường sắt liên vận Việt – Trung vào sâu lãnh thổ nước ta hơn ba trăm mét! Để rồi sau này họ lí sự là luật pháp không cho phép đường sắt nước này lại đặt trên lãnh thổ nước khác, vì thế chỗ nối ray chính là chỗ phân chia biên giới quốc gia!

Qua những vụ vịệc đất đai ở biên cương phía bắc, có thể dễ dàng nhận ra bài bản cướp đất của phương Bắc là: Lặng lẽ chiếm đất ở từng điểm nhỏ lẻ, rải rác, coi như đó chỉ là những vụ việc cục bộ, địa phương, nhà nước trung ương không hay biết! Nhà nước trung ương cứ cao giọng nói hữu hảo, cứ ban phát lời vàng hữu nghị nhưng cục bộ cứ lấn đất, chiếm đất, lặng lẽ mà chiếm, không gây ồn ào thành sự kiện quốc gia là được! Cả hệ thống truyền thông khổng lồ của ta cũng làm ngơ đồng lõa! Mấy con thú của công viên giải trí Đại Nam ở tỉnh lẻ Bình Dương xổng chuồng thì nhiều tờ báo ở thành phố Hồ Chí Minh có bài, ảnh đưa tin nhiều ngày, dõi theo từng dấu chân bầy thú vượt ngục! Nhưng ngày 29. 2. 1976 hàng ngàn quân phương Bắc mặc đồ dân sự tràn qua biên giới vào đất ta giăng thành hàng rào ở thác Bản Giốc, Cao Bằng, che chắn cho tốp thợ đổ bê tông cột mốc, chia cắt thác Bản Giốc làm đôi, chiếm nửa thác của ta thì không có tờ báo nào đưa tin! Không có tờ báo nào đưa tin ngày 4.3.1992, đoàn người từ phương Bắc mang súng ống gậy gộc ầm ầm kéo đến bản Sẻo Lũng, mỏm cực bắc của nước ta thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang! Họ đốt phá nhà cửa dân ta rồi tuyên bố đất Sẻo Lũng là lãnh thổ Trung Hoa! Các báo không đưa tin vì không biết sự việc hay không được phép đưa tin? Phương Bắc gây sự lấn đất là việc thường ngày ở biên giới, tai mắt của các báo không thể không biết! Báo chí ở trung ương đã im lặng, báo chí của các tỉnh biên giới cũng lặng thinh thì lạ quá! Kẻ cướp xông vào tận nhà cướp bóc mà không bị chủ nhà hô hóan tố cáo thì kẻ cướp cứ làm tới, chiếm hết điểm cao này đến sườn núi khác! Nhiều thế đất có giá trị chiến lược về quân sự và kinh tế chiếm được rồi, lúc đó họ mới hối thúc ta đàm phán kí kết hiệp ước biên giới để hợp pháp hóa những mảnh đất hiểm yếu đã chiếm được!

Năm 1885, được người Pháp cắt nhượng cho một rẻo đất Việt Nam ở biên giới phía Bắc thì năm 1887 có ngay hiệp ước biên giới Việt – Trung kí giữa nhà Thanh và chính quyền Pháp để phần đất Việt Nam bị cắt nhượng đó chính thức trở thành đất đai Trung Hoa!

Bài bản lấn đất này đã diễn ra từ trong xa thẳm lịch sử nên vua Lê Thánh Tông phải nhắc nhở bề tôi “kiên quyết tranh biện”! Tranh biện trong đàm phán với phương Bắc để giữ được đất đai thiêng liêng là vô cùng quan trọng. Chúng ta chưa nhận thức được đầy đủ điều này hay vì lẽ gì chúng ta không thể tranh biện? Phương Bắc biết rằng mảnh đất của ta bị họ chiếm sẽ là trở ngại khó vượt qua trong đàm phán về hiệp ước biên giới nên họ lại định ra cả thời hạn phải hòan thành đàm phán, thời hạn phải hòan thành cắm mốc và ta cứ răm rắp thực hiện!

Tranh biện để giữ lấy đất đai tổ tiên là trí lự kẻ sĩ, là khí phách dân tộc. Ôi chao, ý thức dân tộc đã làm nên nền văn minh sông Hồng, đã làm nên nền văn hóa Lạc Việt, khí phách dân tộc đã làm nên những chiến công hiển hách chống ngọai xâm Bạch Đằng, Đống Đa, Điện Biên Phủ đâu rồi? Trí lự kẻ sĩ Đại Việt đâu rồi? Trong lịch sử, triều đại nào cũng phải đưa những kẻ sĩ, những lõi sáng dân tộc, những tinh hoa Đại Việt như Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trực . . . ra tranh biện với phương Bắc.

Ngày nay người đi đàm phán đã có chủ trương, chỉ đạo của đảng, như quan tòa ngồi xử các vụ án có liên quan ít nhiều đến chính trị đều có sẵn bản án bỏ túi, cứ theo bản án đã có trong túi mà xử! Người đi đàm phán chỉ cần có hàm quan chức cấp bộ và có cấp ủy đảng tương đương, ủy viên ban cán sự đảng cấp bộ là ổn! Kết quả đàm phán đã có từ trước đàm phán rồi, đâu cần kẻ sĩ, đâu cần tranh biện! Vâng, kết quả đàm phán đã có từ trước đàm phán rồi, điều này đã được tuyên bố chung Vịêt – Trung nhân chuyến đi Trung Hoa của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh tháng năm, năm 2008, tiết lộ: “Hai nước sẽ thiết lập đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo . . . Việc tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải giữa hai nước, hai bên phải tôn trọng những kí kết của lãnh đạo đã thỏa thuận trong quá khứ”! Viết “hai bên phải tôn trọng những kí kết . . .” cho có vẻ bình đẳng thôi! Chỉ có Trung Hoa lấn đất của ta, ta đâu dám động đến đất đai Trung Hoa! Trong đàm phán, ta không chấp nhận sự lấn chiếm đó nên mới có đôi co, tranh chấp! Chỉ có Việt Nam tranh chấp đòi lại đất mà thôi! Vì thế nội dung thực sự của lời tuyên bố chung là: “Việc tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải giữa hai nước, Việt Nam phải tôn trọng những kí kết của lãnh đạo hai nước đã thỏa thuận trong quá khứ”! Lãnh đạo đã thỏa thuận rồi thì người đàm phán còn tranh biện gì nữa!

Ông thứ trưởng bộ Ngọai giao Lê Công Phụng rồi đến ông thứ trưởng Vũ Dũng kế nhiệm làm trưởng đòan Việt Nam đàm phán về hiệp ước biên giới với Trung Hoa, khi trả lời phỏng vấn của báo chí trong nước và ngòai nước đều nói rằng không có chuyện mất đất! Nhưng thực tế đất đã mất, biển đã mất rồi! Dư luận hỏi, hai ông không thể nói rằng đúng, chúng ta đã phải kí kết hiệp ước để mất đất, mất biển nên hai ông phải nói thế cho qua chuyện mà thôi! Còn người dân ở biên giới và những người Việt Nam nhìn thấy rõ sự việc mất đất thì nói khác!

Tiếp đòan nhà văn Việt Nam lên biên giới Cao Bằng, bà Nguyễn Thị Nương, ủy viên trung ương đảng, bí thư tỉnh ủy Cao Bằng, nói: Đường biên phân chia lại, có chỗ đất bên bạn thuộc về ta, có chỗ đất bên ta thuộc về bạn, nhưng bên ta thuộc về bạn nhiều hơn! (Đỗ Hòang. Cực Bắc bao nỗi lo toan. Tạp chí Nhà Văn, hội Nhà Văn Việt Nam, số 1.2008, trang 55).

Đó là cái nhìn khái quát của người lãnh đạo. Còn mắt người dân thì thấy cụ thể hơn. Nhà văn Đỗ Hòang, tác giả bài bút kí Cực Bắc bao nỗi lo toan vừa dẫn ra ở trên, kể: Tôi đến thác Bản Giốc gặp cụ Nông Văn Thà làm ruộng bên thác kể rằng: Hồi còn nhỏ, nhà cụ dựng ở bên kia thác Bản Giốc, cụ theo bố vào sâu cách thác 12 km để làm rẫy (Bài đã dẫn, trang 54) Nhà văn Đỗ Hòang viết tiếp: “Bây giờ phân giới, phần thác đã nằm phía bên bạn hơn phần nửa! Các cột mốc phải cắm đi cắm lại nhiều lần” (Bài đã dẫn, trang 58) Vẫn bài bút kí Cực Bắc bao nỗi lo toan, nhà văn Đỗ Hòang viết về đường biên giới ở Lạng Sơn: “Riêng tôi chứng kiến là năm 1973, khi tôi lên Lạng Sơn nhìn thấy Mục Nam Quan là của bộ đội mình đứng gác. Nhưng tháng 5 năm 2006 vừa qua, tôi cùng đòan nhà văn Việt Nam ở Trung Quốc về qua cửa khẩu Lạng Sơn thì thấy cổng Hữu Nghị Quan và nhiều ngôi nhà xây từ thời Pháp đã ở trên đất bạn . . . Đường biên lùi sâu vào đất ta đến năm sáu trăm mét! Đấy là điều không phải chỉ tôi mà nhiều người nữa cũng rất day dứt, băn khoăn, mặc dù tôi chỉ là một thường dân và tự hỏi: Mình như gái góa lo việc triều đình! Nhưng cổ nhân đã dạy: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, nhà nước thịnh suy, một dân thường cũng phải có trách nhiệm lo lắng, bảo vệ. Việc này luôn bức xúc và canh cánh trong lòng tôi!” (trang 55)

Là bộ đội Nam tiến, tập kết ra Bắc, là chiến sĩ biên phòng ngay từ khi thành lập lực lượng này, rồi trở thành sĩ quan tuyên huấn, anh sĩ quan tuyên huấn bộ đội biên phòng Lương Sĩ Cầm đã nhiều lần đến cửa khẩu Hữu Nghị ở Lạng Sơn, sau này trở thành nhà văn, đại tá bộ đội biên phòng, trong bài viết về cửa khẩu Hữu Nghị ở Lạng Sơn, nhà văn, đại tá Lương Sĩ Cầm, viết: Năm 1955, lấy cớ giúp Việt nam khôi phục đường xe lửa, bọn bành trướng đã cho đặt điểm nối ray vào sâu đất Việt Nam 326 mét, đến năm 1974, nghĩa là ngót hai mươi năm sau, chúng trắng trợn tuyên bố điểm nối ray ở đâu là đường biên giới chạy qua đó, hòng cướp của ta một dải đất ăn sâu đến tận chân đồn Hữu Nghị Quan!

Sự thật cay đắng như vậy đó!

Tháng 1 năm 1974, phương Bắc dùng lực lượng hải quân, không quân hùng mạnh đánh chiếm của chính quyền Sài Gòn tòan bộ quần đảo Hòang Sa trải dài hàng trăm kilomet. Quần đảo Hòang Sa bị mất trắng bằng vũ lực, bằng cuộc xâm lăng trắng trợn chúng ta còn có thể nhờ luật pháp quốc tế phân xử, đòi lại.

Bằng cách này hay cách khác nhất định chúng ta sẽ giành lại được quần đảo Hòang Sa đã thấm đẫm máu ông cha ta, còn lưu giữ hài cốt nhiều thế hệ ông cha ta! Xã hội càng văn minh, con người càng biết tôn trọng luật pháp và đạo lí, con người càng có nhu cầu sống trong luật pháp và đạo lí. Thế hệ chúng ta chưa đòi lại được quần đảo Hòang Sa thì thế hệ con chúng ta, cháu chúng ta sẽ đòi được. Đó là điều chắc chắn. Nhưng một phần thác Bản Giốc ở Cao Bằng, hàng trăm mét chiều sâu đất đai ở Đồng Đăng Lạng Sơn, những điểm cao ở Vị Xuyên, Yên Minh, tỉnh Hà Giang, những điểm cao ở Cao Lộc, Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn bị Trung Hoa chiếm trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 – 1988, những mảnh đất gấm vóc thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam đã trở thành đất đai Trung Hoa bởi hiệp ước biên giới do hai bên cùng thỏa thuận kí kết năm 1999 thì làm sao có thể đòi lại được, thưa ông Thủ tướng?

Ở cạnh nhà nước phương Bắc khổng lồ luôn lăm le thôn tính, bành trướng, cha ông ta vẫn đứng vững và bảo tòan được bờ cõi là nhờ văn hóa Lạc Việt và nhờ ý thức dân tộc rất sâu sắc của người dân nước Việt, từ bậc đế vương ngồi trên ngôi báu đến người dân đen nơi xóm vắng.

Nền văn hóa Lạc Việt tuy không chói lọi tỏa sáng khắp thế giới nhưng cũng đủ làm nên sự khác biệt của cốt cách Việt Nam, tâm hồn Việt Nam. Văn hóa Lạc Việt đã tạo ra điệu hát chèo ở miền Bắc, điệu hát lí ở miền Nam, tạo ra kho tàng văn hóa dân gian đồ sộ, tạo ra ca dao, dân ca miền Bắc, miền Trung, miền Nam, mỗi miền một nét độc đáo riêng, tạo ra những bản trường ca, những khúc sử thi hùng tráng Tây Nguyên. Văn hóa Lạc Việt đã sản sinh ra trống đồng Đông Sơn, trống đồng Ngọc Lũ, sản sinh ra cồng chiêng Tây Nguyên. Tiếng trống đồng, tiếng cồng chiêng luôn âm vang trong không gian sông núi nước Việt. Điệu chèo điệu lí luôn tha thiết trong tâm thức người Việt, tạo nên bản sắc tâm hồn Việt.

Ý thức dân tộc “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” tạo ra truyền thuyết Hùng Vương để mà tự hào, tạo ra truyền thuyết Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở ra trăm con để nhắc nhở đoàn kết thương yêu dân tộc. Ý thức dân tộc bao giờ cũng đưa Tổ quốc lên trên hết. “Tổ quốc trên hết!”, “Hi sinh vì Tổ quốc!”, nhờ thế Tổ quốc Việt Nam mới vững vàng tòan vẹn đến hôm nay. Nhưng ngày nay nhà nước ta lại đưa đảng lên trên hết!

Tổ quốc cho ta khái niệm, cho ta ý thức về đất nước, về nhân dân, về dân tộc. Đảng cho ta khái niệm về một giai cấp, một học thuyết, một lực lượng xã hội. Đạo lí dân tộc và chữ nghĩa thánh hiền đều dạy con dân nước Việt là Trung với Nước, Hiếu với Dân. Đưa Tổ quốc lên trên hết nên ngày mới giành được độc lập sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở những nơi công quyền đều có bàn thờ Tổ quốc với hàng chữ trang trọng, thiêng liêng “Tổ quốc trên hết”. Đưa Tổ quốc, đưa đất nước lên trên hết nên phong tục từ ngàn đời của người Việt là mùa xuân về, nơi nơi mở hội mừng đất nước thái bình, thịnh vượng, mùa xuân về, người người đi lễ Trời, Phật cầu mong mưa thuận gió hòa, cuộc sống ấm no hạnh phúc.


Ngày nay nhà nước dạy con dân nước Việt là Trung với Đảng, Hiếu với Dân, mùa xuân về thì Mừng đảng, Mừng xuân! Dù đảng có công lao lớn với dân tộc trong giai đọan lịch sử vừa qua nhưng không thể đưa đảng lên trên Tổ quốc, trên dân tộc, không thể lấy khái niệm đảng thay khái niệm Tổ quốc, thay khái niệm dân tộc! Trung với Đảng, Hiếu với Dân thay cho Trung với Nước, Hiếu với Dân, Mừng Đảng, mừng Xuân thay cho Mừng Xuân, mừng Đất nước là sự thiếu khiêm tốn, thiếu lễ nghĩa, “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, là đặt đảng không đúng vị trí của đảng, là lấn át, hạ thấp Tổ quốc, hạ thấp đất nước, hạ thấp dân tộc! Trong khái niệm, trong ngôn từ chỉ có đảng! Khái niệm Tổ quốc bị gạt bỏ, mất hút thì ý thức dân tộc cũng phai nhạt, chìm khuất!

Ý thức dân tộc bị coi nhẹ đến đau lòng còn biểu hiện ra trong việc làm, trong hành xử của nhà nước với dân! Thanh niên, sinh viên, học sinh tập hợp trước sứ quán Trung Hoa, ôn hòa phản đối Trung Hoa sát nhập quần đảo Hòang Sa, quần đảo Trường Sa vào lãnh thổ Trung Hoa. Đó là nền văn minh Lạc Việt lên tiếng, là ý thức dân tộc Việt Nam lên tiếng! Nhà nước dùng công cụ bạo lực trấn áp tiếng nói chính đáng của nền văn minh Lạc Việt, trấn áp ý thức dân tộc chính đáng của nhân dân, tài sản vô giá làm nên sự trường tồn của non nước Việt Nam, đó là một cư xử thiếu văn minh với nền văn minh Lạc Việt, là chối bỏ ý thức dân tộc của nhân dân!

Tham vọng bành trướng của phương Bắc phải chững lại trước ý thức dân tộc rất sâu sắc, rất mạnh mẽ của vua tôi nước Việt. Ý thức dân tộc vơi hụt đi, lập tức phương Bắc sẽ lấn tới! Ở nơi núi liền núi, sông liền sông, biển liền biển thì họ sẽ lấn núi, lấn sông, lấn biển. Tài nguyên ở sâu trong lãnh thổ ta, họ không lấn chiếm được thì họ sẽ đưa người đến tận nơi, khai quật tài nguyên trong đất đai ta đưa về nước họ phát triển kinh tế của họ! Hàng trăm công dân phương Bắc mới đến Tây Nguyên hôm qua rồi hàng ngàn người sẽ đến nay mai là để làm điều đó!

Lạ quá, qui họach khai thác bô-xít ở Tây Nguyên mới được Chính phủ phê duyệt, luận chứng kinh tế kĩ thuật đang sọan thảo, các nhà khoa học còn đang tranh luận nên hay không nên khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, thế mà công dân Trung Hoa, người cầm bản đồ, người mang cưa máy, người cuốc, người xẻng đã xục xạo ở Tây Nguyên!

Dư luận người dân Việt Nam đang lo ngại, đang xôn xao bàn tán về tính hiệu quả, về thảm họa môi trường khi khai thác bô-xít Tây Nguyên và càng lo ngại hơn khi hàng ngàn trai tráng Trung Hoa sẽ có mặt đông đảo, trùng trùng đội ngũ ở Tây Nguyên, trung tâm bán đảo Đông Dương, khi đó ông Thủ tướng mới tuyên bố rằng khai thác bô-xít Tây Nguyên là chủ trương lớn của đảng và nhà nước! Chủ trương lớn của đảng và nhà nước mà Quốc hội của dân chưa được bàn định thì người Trung Hoa đã xắn tay áo thực hiện chủ trương lớn của đảng và nhà nước ta rồi! Điều này làm cho người dân phải đặt câu hỏi: Chủ trương lớn khai thác bô-xít Tây Nguyên có thực sự vì đất nước Việt Nam, có thực sự vì nhân dân Việt Nam. Tôi lại nhớ đến câu văn trong tuyên bố chung Việt – Trung mà Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã kí với Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào tháng 5 năm 2008 ở Bắc Kinh: Hai nước sẽ thiết lập đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo . . . Việc tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải giữa hai nước hai bên phải tôn trọng những kí kết của lãnh đạo đã thỏa thuận trong quá khứ!

Việt Nam mới có vài xưởng cơ khí nhỏ bé sửa chữa những hư hỏng nhẹ của máy bay. Những xưởng sửa chữa máy bay đó như những tiệm sửa xe máy vỉa hè của ngành mô tô mà thôi! Việt Nam chưa có công nghiệp hàng không, lại càng không mơ đến công nghiệp vũ trụ! Vì thế, Việt Nam không có nhu cầu lớn và bức thiết về nhôm.

Nhu cầu lớn và bức thiết về nhôm là Trung Hoa! Với tham vọng bành trướng, Trung Hoa đang khao khát trở thành cường quốc quân sự và cường quốc vũ trụ. Muốn trở thành cường quốc quân sự phải có số lượng lớn vũ khí chiến lược tầm xa hiện đại nhất. Công nghiệp vũ trụ luôn gắn liền với công nghiệp hàng không. Công nghiệp vũ trụ, công nghiệp hàng không và vũ khí chiến lược tầm xa cần rất nhiều nhôm. Hiện nay Trung Hoa là nước sản xuất và tiêu thụ nhôm lớn nhất thế giới. Trung Hoa cũng có nhiều mỏ bô-xít nhưng trữ lượng nhỏ. Trữ lượng bô-xít của Trung Hoa chỉ bằng 2% trữ lượng tòan cầu. Đang hối hả khai thác bô-xít trong nước thì Trung Hoa phải dừng lại! Có mỏ bô-xít Trung Hoa đã đầu tư tới gần hai tỉ đô la vừa đưa vào khai thác cũng phải đóng cửa vì thảm họa môi trường! Ngòai lượng bùn đỏ, red mud, ngập ngụa làm tan hoang môi trường tự nhiên, giết chết màu xanh, sa mạc hóa một vùng rộng lớn, khai thác bô-xít còn phải sử dụng nhiều hóa chất độc hại như sulfur dioxide. Vùng khai thác bô xit sa mạc đỏ xuất hiện, khí hậu nóng lên, bệnh lạ và bệnh hiểm phát triển, cây trồng, vật nuôi không sống nổi! Trước tình cảnh đó, Trung Hoa phải đưa ra chính sách: Xuất khẩu thảm họa môi trường và nhập khẩu nhôm thô, alumina, nguyên liệu về luyện thành nhôm kim lọai, alminium, để thỏa mãn tham vọng phát triển công nghiệp vũ trụ, công nghiệp hàng không và công nghiệp sản xuất vũ khí chiến lược tầm xa.

Cả lục địa đen châu Phi đã trở thành bãi khai mỏ của Trung Hoa, cung cấp nguyên liệu thiết yếu cho cả nền công nghiệp nhiều tham vọng của Trung Hoa. Trung Hoa ồ ạt đưa người đến châu Phi khai mỏ dầu ở Sudan, Nigéria, Angola, khai mỏ đồng ở Zambia, Congo, khai mỏ sắt ở Libéria và khai mỏ bô-xít ở Guinea. Có một điều rất đáng chú ý là, những nước châu Phi cho Trung Hoa đến rút ruột tài nguyên phần lớn là những nước độc tài, tham nhũng và các tổ chức quốc tế đã lên án mạnh mẽ Trung Hoa chỉ cốt khai thác thật nhanh, thật nhiều tài nguyên của các nước mà không hề quan tâm đến môi trường, sinh thái nơi khai thác, sẽ để lại hậu quả bi thảm cho môi trường sống ở những nơi đó!

Trữ lượng bô-xít ở Guinea không lớn lại quá xa xôi với Trung Hoa. Phải vận chuyển lượng lớn nhôm thô, alumina, đi chặng đường gần hai mươi ngàn cây số bịển dữ, vừa quá tốn kém, vừa nhiều bất trắc, trở ngại! Trong khi bô-xít ở Tây Nguyên Việt Nam có trữ lượng khá lớn lại kề cận với Trung Hoa. Thế là người Trung Hoa mau mắn đặt chân lên mảnh đất bô-xít có màu tím lịm như miếng tiết gà ở Tây Nguyên nước ta! Và chúng ta cũng chấp nhận để Tây Nguyên nước ta trở thành bãi khai mỏ của người Trung Hoa với những hậu quả bi thảm cho môi trường Tây Nguyên sao?

Khai thác bô-xít Tây Nguyên, các nhà khoa học đã nói về hiệu quả kinh tế không lớn, không đáng với những thiệt hại quá lớn về môi trường. Các nhà khoa học đã nói về những bất cập: Khai thác bô-xít cần quá nhiều nước mà hằng năm Tây Nguyên đều có hơn nửa năm khát nước; Khai thác bô-xít cần quá nhiều điện mà nước ta đang thiếu điện. Các nhà khoa học đã nói về hiểm họa: Khai thác bô-xít thải ra khối bùn đỏ khổng lồ đặt chênh vênh trên nóc nhà ba nước Đông Dương.

Khoan nói đến thảm họa bùn đỏ, chỉ cần nhớ lại mấy trận lũ quét gần đây. Từ nguồn ra biển của các con sông miền Trung đều rất ngắn, độ dốc rất cao, rừng cây có vai trò rất lớn trong việc giữ nước làm gỉam lượng nước của các con lũ. Chỉ mấy tên cướp rừng chặt trộm mấy cánh rừng ở Gia Lai, ở Lâm Đồng, ở Đắc Nông mà suốt nhiều năm liền, cả dải đất miền Trung liên tiếp bị lũ quét, mỗi năm quét đi hàng chục mạng người, quét đi đất màu, nhà cửa, hoa màu hàng trăm ngàn hecta! Khai thác bô-xít Tây Nguyên, diện tích rừng bị phá còn lớn gấp trăm, ngàn lần diện tích rừng bị mấy tên cướp rừng tàn phá thì thảm họa sẽ còn lớn đến mức nào?

Không gian văn hóa Tây Nguyên đang bị thu hẹp nghiêm trọng. Nhiều năm qua, dòng người di dân tự do từ miền Bắc, từ đồng bằng miền Trung ồ ạt đổ bộ lên Tây Nguyên. Không gian văn hóa làng rừng Tây Nguyên đã bị thu hẹp rất lớn trước sự mở rộng của không gian văn hóa làng vườn của người Việt đồng bằng. Những sự biến nổ ra vừa qua ở Tây Nguyên chính là những phản ứng văn hóa, xung đột văn hóa. Nay hàng ngàn trai tráng Trung Hoa đến quần thảo, đào xới đất rừng Tây Nguyên. Họ không chỉ mang văn hóa Đại Hán “bình thiên hạ” mà họ còn mang cả thứ văn hóa của hàng hóa Trung Hoa, hàng hóa tiêu dùng hào nhóang, rẻ tiền và rất có ý thức chinh phục, chiếm lĩnh thị trường sẽ đổ vào Tây Nguyên! Biến Tây Nguyên thành một công trường không còn rừng cây, chỉ có ngổn ngang bùn đất, họ cũng biến Tây Nguyên thành cái chợ Trung Hoa! Rừng cây đại ngàn Tây Nguyên là cội nguồn văn hóa làng rừng đầy bản sắc Tây Nguyên. Rừng cây đại ngàn Tây Nguyên bị đào tận gốc, trốc tận rễ thì văn hóa làng rừng Tây Nguyên cũng bị đào tận gốc, trốc tận rễ!

Khai thác bô-xít Tây Nguyên là chủ trương lớn của đảng và nhà nước. Nhưng khai thác bô-xít Tây Nguyên cũng đặt ra những vấn đề rất lớn về độc lập dân tộc, về mục đích và hiệu quả sử dụng tài nguyên đất nước, về môi trường sống và không gian văn hóa của đất nước.

Tòan vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc, tài nguyên và môi trường đất nước, tài sản văn hóa của dân tộc, vì những vấn đề lớn và nghiêm trọng đó, tôi mạo muội bộc lộ nỗi lo lắng của một con dân nước Việt, mong được Thủ tướng lưu tâm.

Trân trọng cảm ơn Thủ tướng

Kính thư

PHẠM ĐÌNH TRỌNG

Nhà văn

A. 94 Phạm Văn Bạch, P.15, Q. Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh

T. 091 8483 823

NƠI NHẬN

. Thủ tướng NGUYỄN TẤN DŨNG

. Nhà thơ HỮU THỈNH, Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam

. Chi bộ P. 15, Q. Tân Bình, Tp. HCM

. Các cơ quan truyền thông

Posted by Picasa

co non

 
Posted by Picasa

nguyen ngoc



Đất và nông dân

08:30-02/07/2008

Người ta rất thường có bệnh hay quên. Hồi kết thúc kháng chiến chống Pháp, trở về thành phố, về thủ đô, Tố Hữu đã ngậm ngùi nhắc: “…Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng?...”. Vậy mà rồi nhà cao khiến người ta chẳng còn nhớ thật.



Vừa qua lần quên thứ nhất, lại đến quên lần thứ hai.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và thoát được khỏi khủng hoảng lương thực đến khốn khổ, ta lại liền quên nông thôn, nông dân, những người không những đã nuôi ta suốt những năm dài gian nan nhất, mà còn từng là “chủ lực quân” của công cuộc biến cải xã hội to lớn, và kỳ diệu thay cũng lại là ngòi nổ dũng cảm và sáng tạo của công cuộc đổi mới đã cứu đất nước ra khỏi cơn khủng hoảng không hề ngắn… Để đến hôm nay nhiều người đã phải nói lên một sự thật đã tới hồi không còn có thể quay mặt làm ngơ nữa: nông dân chán ruộng, nông dân chán nông thôn. Nghĩa là về cả hai mặt quan trọng, sống còn nhất trong đời sống con người đã khủng hoảng thật quá sâu: về kinh tế, người lao động trên ruộng đồng đã chán cả mảnh đất ngàn đời máu thịt của mình; về văn hóa thì cái nơi vốn là gốc rễ của văn hóa dân tộc ấy đã chán chường đến mức người ta không còn muốn sống ở đấy nữa, mặc dầu bỏ ra đi thì sẽ là lao vào một cuộc phiêu lưu cũng thật mịt mùng!

Ai cũng biết quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập là một cuộc thách thức to lớn, như chưa từng có, về mặt nào đó còn nghiêm trọng, sâu sắc hơn cả chiến tranh. Thách thức ấy chắc chắn nông dân, nông thôn chịu đựng gay gắt hơn cả. Chủ nghĩa tư bản đã phải bỏ cả ba trăm năm để đi qua, và đi qua với “từng lỗ chân lông thấm máu”, tất nhiên là máu nông dân, ta học mãi rồi, cái thời “cừu ăn thịt người” ấy. Ta định đi qua trong vài ba chục năm. Mà trong cuộc đi qua ấy, vũ khí chủ yếu của người nông dân chính là đất. Nông dân, tức là đất. Từ đất sinh ra, mọc lên, lăn lộn trên đất mà sống và nuôi sống xã hội, đất là sức mạnh duy nhất, là vũ khí duy nhất của nông dân. Không có đất của riêng mình thì người nông dân như con bệnh bị mất hết sức đề kháng, không còn gì để chống đỡ với các lực lượng dữ dằn của thị trường, mà lại là thị trường hoang dã như chúng ta đang có. Họ từng làm chủ lực quân vô cùng kiên cường ấy bỗng trở nên lúc nào cũng nơm nớp lo sợ: sợ mất đất, cái mảnh đất vốn đã không phải là của họ, họ cứ như được cho sống nhờ, bất cứ lúc nào cũng có thể bị “thu hồi”, bị “chuyển đổi”, bị đoạt mất. Cái thứ đất quen thân, thống thiết, máu thịt với họ thế, mà bỗng trở nên rất đỗi kỳ lạ, ở trong tay họ, khi họ bị tước đi thì giá chỉ có mấy đồng, nhưng chỉ cần chuyển sang tay doanh nghiệp nào đó, một ông nước ngoài xa lạ, sang trọng nào đó thì bỗng có giá hàng nhiều tỷ!...


Nông dân, thời nào cũng vậy, xưa nay đều vậy, là cái nền của xã hội. Và cái nền thì không ồn ào, không hào nhoáng, không huênh hoang, nhưng chính vì là cái nền nên xã hội sẽ không thể yên nếu cái nền không yên. Mọi sự phát triển, mọi bước đi tới sẽ chông chênh, nếu không đổ vỡ.

Và cách củng cố, trả sức lại cho cái nền ấy là vô cùng quan trọng nhưng không khó, chỉ cần dám dứt khoát làm mỗi một việc: trả toàn quyền có đất thật sự lại cho từng người nông dân. Khi nông dân đứng chặt chân trên mảnh đất thật sự của họ, của riêng họ thì chẳng ai chiến thắng nổi họ. Xã hội sẽ bền, đất nước sẽ vững chãi trong cuộc đi tới đầy sóng gió.

Và cũng nên biết rằng mọi nhũng nhiễu trên con đường đi tới của chúng ta, trong đó có đại họa tham nhũng nếu không khắc phục được sẽ phá từ bên trong, bằng cách này cách khác, đều có liên quan đến đất, đất của nông dân. Chỉ khi đất là của nông dân, thật sự, lâu dài, đời kiếp, thì mọi sự mới ổn, dể mà đi tới, để mà hội nhập, với toàn cầu hóa.

Nguyên Ngọc