Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 10 tháng 9, 2010

Tắt lửa tối đèn có ai?

Nguyễn Chí Thành 
Thời báo Kinh tế Việt Nam 

Nhiều người bảo, Tết bây giờ nhạt hơn trước. Dẫu ăn ngon, mặc đẹp hơn. Cái sự háo hức, vui như Tết cũng nhạt hẳn. Có thật mọi thứ đều nhạt đi? 

Tình người là “muối đời” mặn nhất. Muối mà còn nhạt thì biết lấy gì bỏ vào cho mặn? Hay là đã qua thời, thiếu đủ mọi thứ, người ta phải tựa vào nhau, xích lại gần nhau? Nay thì no và ấm, xóm giềng hoá thừa. Tắt lửa đã có bếp ga, bếp điện. Tối đèn thì có đèn xạc. Bước sang thời “Đèn nhà ai nhà nấy rạng” rồi sao? 

 Tôi nhớ, cách đây hơn hai chục năm, nơi tôi ở gọi là xóm “cấp bốn”. Mái lợp ngói, nhiều chỗ vá víu giấy dầu. Mưa rào là dột tứ tung phải hứng xô thùng, nồi chậu. Mùa hè hầm hập như hoả lò. Xóm cấp bốn nhưng dân “cấp cao”. Toàn nghệ sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, nhà thơ, nhà báo và nhà giáo. Nhà nọ ngăn nhà kia qua vách cót ép. Đố ai ăn giấu, ăn diếm được. 

Trẻ khóc, vợ chồng thủ thỉ giữa đêm khuya nghe như sát bên tai. Sống tập thể, chen chúc mãi hoá quen. Sống khép kín, tình người... khép lại Chiều về hay đêm xuống, xóm cấp bốn náo nhiệt như xóm lao động. Mỗi khung cửa như cửa chuồng chim câu. Ríu rít tiếng trẻ. Í ới các cô vợ xin nhau hành tỏi, thìa mỡ, thìa mắm. Vay bơ gạo, chai dầu. Bưng cho nhau bát canh cua, đĩa dưa muối, quả cà nén. Dân trên nhà năm tầng ngó xuống không sao hiểu nổi. Cơm tối xong, mọi nhà đều túa ra ngoài đường. 

Đàn ông đồng loạt cởi trần. Túm tụm bên ấm trà, điếu thuốc. Om xóm chuyện thời sự, bóng đá. Trẻ con trải chiếu như trên bãi biển. Đàn bà, con gái vén quần tít lên. Da trắng vỗ bì bạch dưới trăng vàng. 

Mỗi lần ngước lên toà nhà chắn trước mặt, dân xóm tôi ước ao: “Bao giờ xóm mình ngóc lên bằng họ?”. Giờ thì đố ai nhận ra dãy “chuồng chim” tập thể ấy. Mọi nhà đều xây lên ba bốn tầng. Vênh mặt với ngôi nhà năm tầng ọp ẹp, tróc lở vôi vữa. Vẫn là những người quen cũ, thế mà như người dưng nước lã. 

Chiều và tối, cả xóm im ắng như không người. Cổng sắt, cửa xếp, cửa cuốn im ỉm suốt ngày đêm. Hoạ hoằn mới thấy mặt nhau lúc đổ rác. Khẽ gật đầu, đưa mắt, thế thôi. Lạnh tanh như ngoài bến xe, bến tầu. Hay là có một bức màn vô hình bao bọc từng nhà, từng người ? 

Lại nhớ thời xa vắng. Ai đi nước ngoài về đều có quà cho cả xóm: viên đá lửa, chiếc bút bi. Hút một điếu 555 thơm cả xóm. Quả táo Tây cắt ra thơm khắp năm gian. Bao giờ cho đến. .. ngày xưa? Hình như vật chất lên thì tình người xuống. Có lẽ đang diễn ra một sự xáo trộn lớn nhưng thầm lặng trong đời sống tinh thần. 

Một học giả người Pháp đưa cảnh báo: “Có nghĩa gì những tiến bộ kỹ thuật, văn minh nếu nó giết chết dần tinh thần?”. Guồng máy kiếm tiền ngày một quay hối hả. Đâu chỉ người giầu, cả người nghèo cũng bị cuốn vào. Tất cả có gì xấu đâu. 

Nhưng thử ghé mắt qua khe cửa, là thấy có hơi lạnh lọt ra. Tôi biết, ở Hà Nội có những ông bố, bà mẹ nghỉ hưu, cả đời không biết đến máy tính. Thế mà giờ họ tự giam mình trong thế giới mạng để được nghe giọng con, tiếng bi bô của cháu. Để vơi bớt nỗi nhớ. 

Chúng đâu phải “ở xa tổ quốc”, gần lắm, vài cây số thôi. 

Tôi quen một bà cụ có con trai làm giám đốc một công ty nổi tiếng ở phía Nam. Bà sống trong một chung cư khu đô thị mới ven đô. Xung quanh là những căn hộ kín như bưng, nhìn ra mặt đất hoang cỏ dại rậm rì. Hàng ngày cụ làm bạn với mấy con chó Nhật. Không hàng xóm, láng giềng. Họ hàng ngại đến, bạn già thì ngại thăm. Tối tối, bà ôm chiếc vi tính nối mạng với con cháu. Tình cảm, nỗi nhớ có nối được không? 

Một buổi tôi đến, thấy cụ gục đầu trước màn hình. Trên gò má nứt nẻ như vỏ cây kiệt nhựa, ngấn vệt nước mắt. Cũng ở một khu đô thị nơi Hà Nội mở rộng, có hai ông bà già. Các con góp tiền sắm cho một căn hộ cao cấp. Hàng tuần, theo định lịch, ông bà hẹn “voice chat” với con cháu ở xa. Lần ấy đứt mạng, họ không biết gọi ai đến sửa. Thế là thuê xe ôm chở đến cửa hàng intemet trong phố. Lỡ một cuộc hẹn trên mạng, cha mẹ không thể bỏ. Nếu họ có mệnh hệ gì, chắc con cái cũng đành lỡ suốt đời. 

 Mỗi ngôi nhà đang thành một hòn đảo? Ở những nước thu nhập đầu người ngất ngưởng như Nhật, Pháp, Anh, Mỹ, người ta nói tới “sự cô đơn giữa muôn người”. Cô đơn ngay giữa những khu sầm uất, chật ních người. Ở đó tồn tại một cộng đồng người già không có ai nương tựa. Đấy có phải là một góc khuất của xã hội phát triển mà ta đang cố vươn tới? 

 Một người quen vừa du học Pháp về kể rằng, ở Paris có những vợ chồng già sống trong căn hộ mênh mông. Tiện nghi thì dư thừa nhưng thiếu hơi ấm con cháu. Không cả tiếng khóc trẻ thơ hay tiếng cãi cọ. Hàng ngày, họ lầm lũi đến siêu thị mua thực phẩm. Rồi lê từng bước đẩy xe về nhà. Lắm người, chiều chiều ra đứng ngoài cửa, chờ xem có ai đi ngang qua; Một người dưng cũng được. Để được hỏi han, trò chuyện. Để được nghe thấy tiếng người. Sống trong sự hờ hững của đồng loại, giữa một thế giới đầy người. Mà họ quên mất tiếng nói của con người. 

Mỗi tuần họ lại ngóng đợi nhân viên bảo hiểm xã hội đến chăm sóc, dẫn đi siêu thị. Thời trước, con cái mỏi mắt mong cha mẹ. Thời nay, cha già mẹ héo đỏ mắt ngóng con. Ta đang hướng tới một xã hội như thế ư? “Con cái họ đi đâu hết”. 

Hỏi, rồi tự trả lời: “Rồi đến lượt cha mẹ mình cũng thế. Đến đời mình cũng không khác gì đâu”. Căn hộ khép kín, khép kín lòng, khép kín tình người. Mỗi người sống cô đơn trên một “hoang đảo” đầy đủ đến dư thừa vật chất. Mỗi căn nhà cũng trở thành một hòn đảo. 

Tôi nhớ, có đọc mẩu tin nhỏ trên một tờ báo: “Một bà cụ già sống độc thân trong một chung cư ở Luân Đôn. Một hôm, có người thợ điện đến sửa thì phát hiện bà cụ chết khô đã bốn ngày mà hàng xóm không ai biết Nghe lạnh cả người! 
 
Nhà văn Nhật Bản Murakami nổi tiếng với cả chục cuốn tiểu tuyết được dịch ra hàng chục tiếng nước ngoài. Nhưng thực ra, nó chỉ viết một chuyện duy nhất: nỗi đau vì sự thiếu vắng tình cảm, nỗi lo sợ vì sự sung túc bất thường. Sự vô vị của cuộc sống đời thường. Nỗi buồn chán về học sống nặng vật chất mà hời lợt. 

Con người trở nên dễ uốn một cách kỳ lạ. Dường như xã hội càng phát triển, người ta càng phát triển sự tồn tại tất yếu của những “ốc đảo” người. Ai cũng co rút, phòng thủ, nấp kín trong thế giới của riêng mình. Không đoái hoài đến nói ai, trừ cái “tôi” thiêng liêng, bất khả xâm phạm. 

Ban đầu coi đó là tôn trọng quyền “tự do cá nhân”. Dần dà nó ngậm nhấm như muối mọt, như a xít ăn mòn. Cha, mẹ, con cái mỗi người mỗi phòng. Mỗi thế giới riêng. Trẻ con mới “nứt mắt” đã ý thức quyền sở hữu, quyền tự do của chúng. Ông, bà , cha mẹ muốn vào phòng riêng của chúng, phải gõ cửa được phép mới được vào. Tự do cá nhân tuyệt đối đang dần thay thế cho nếp sống chung mâm, chung bát. 

Phải chấp nhận thôi. “Sống mỗi người mỗi nhà…”. Đã hết thời “quan tâm” tới mức xoi mói nhau. Đừng ai nhòm vào khe cửa nhà ai, nhà nấy rạng. Đèn dầu ấm áp hơn đèn điện Hẳn nhiên, chẳng nên “bi kịch hóa” xã hội đang tiến lên hiện đại như thế. 

Nhưng ngay lúc này có thể thấy trước, thấy từ xa, những con sóng vô tình và vô cảm đang tiến đến gần. Dang ngấp nghé ngoài ngưỡng cửa xã hội. Chả mấy lâu sẽ ập tới bậc thềm mỗi nhà. 

Bi kịch chính vì, những người sắm vai chính lại “vô tư” đón nhận làn sóng ấy như là một điều kiện cần cho sự phát triển, một quy luật muôn đời. Nhiều lúc chợt thấy mình mỏi mệt, mỏi bã người. Cứ như sợi dây đàn căng và đứt rời. Như ngọn cây bị cưa lìa khỏi gốc. 

Tự nhiên nghe lòng rỗng không, vô vị. Thấy một mình giữa đông người. Giật mình quay lại đằng sau, phía không có ai, phía một mình. Chính lúc ấy, lúc đứng trên ban công, tôi mới phát hiện ra một xóm lao động. 

Nó nằm trong ngõ nhỏ, ngay trước mắt mà lâu nay mình không để ý ngó xuống. Nhiều lần chỉ phóng xe máy vụt qua, lướt qua những gương mặt nhuốm màu nắng bụi, sương gió. Mùa đông ngày ngắn, đêm dài, tối sập lúc nào không hay. Tôi lững thững đi bộ, đến cái quán cóc ở sâu của ngõ. Thì ra hầu như nhà nào cũng chỉ thắp một ngọn điện. Hỏi chuyện, bà lão bán chè chén bảo: “Nghèo thì phải hà tiện. Một ngọn. Một ngọn điện cũng đủ sáng cả nhà”. Vậy sao trong nhà cụ lại thắp thêm một ngọn đèn dầu. Rót cho tôi chén trà nóng hổi, cụ chậm rãi: “Các cụ xưa dạy, chỉ có đèn dầu mới ấm nhà. Xóm tôi, nhà nào vẫn dùng than tổ ong. Những lúc mất điện, hàng xóm vẫn chạy sang nhau xin lửa". 

Ở Hà Nội còn nhiều lắm những ngõ nhỏ, xóm nhỏ lao động. Hiện tại của họ là quá khứ của mình. Còn hiện tại của mình có trở thành tương lai của họ không? Chẳng lẽ cứ phải sống nghèo, sống thiếu thì mới cần tính làng nghĩa xóm? Chẳng lẽ cứ phải sống nghèo, sống thiếu thì mới cần tình làng nghĩa xóm? 

 Trong một ngõ nhỏ ven Hồ Tây, có một gia đình người Mỹ thuộc diện “di dân tái định cư”. Ông Mark Rapoport, dân gốc New York và bà vợ đã “tạm trú” ở Hà Nội hơn tám năm nay. Mới rồi, ông mở một gallery nằm trong 36 phố phường, để giới thiệu và kinh doanh các sản phẩm truyền thống của 54 dân tộc Việt Nam. 

Không có năm nào hai người con lớn của họ không sang thăm bố mẹ tranh thủ đi thăm Hà Nội. Cuối cùng, cả hai đã “chấm” Hà Nội nơi lựa chọn số 1 để cả nhà cùng sống. Sau khi bàn bạc, gia đình người Mỹ này đã lập một mục gồm 100 lý do, song lý do đầu tiên mà họ lựa chọn là con người “Thân thiện nhất, trung thực nhất và nồng ấm nhất so với bất cứ nơi nào. Con người làm việc cần cù nhất, it cằn nhằn nhất, lạc quan nhất so với bất cứ đâu”. 

 Gia đình ông bà Mark Rapoport ấn tượng nhất là: “Hàng xóm của chúng tôi thật thân thiện và cởi mở. Họ không bao giờ quên nhắc con cái chào “Hello” với những người hàng xóm nước ngoài như chúng tôi”. Những “người Mỹ trầm lặng” cảm thấy ấm cúng bởi tình cảm của những người hàng xóm như người thợ sửa giày, cụ già bán bánh mì sáng, cô bán đồng nát, những người đàn bà đẩy xe rác, nhất là lũ trẻ hàng xóm... 

Từ bỏ một thế giới thừa thãi vật chất, bước sang Hà Nội để rồi ăn đời ở kiếp, người Mỹ, người Pháp hay những người nước ngoài tìm gì? 

Có gì đâu, chỉ là những thứ quá nhỏ bé và giản dị. Thế mà mình thì hờ hững, rẻ rúng. Vô tình hay vô tâm rũ bỏ cho nhẹ, cho nhanh.

Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam

Người Việt mình có một đặc tính là tiết kiệm.

 

  Nhưng cái sự tiết kiệm quá đáng của người Việt nhiều khi đẩy họ vào một lối sống tạm bợ và “rẻ”. Ngay cả khi họ đi làm, có tiền rồi vẫn cứ giữ một lối sống tạm bợ. Hôm nay là ngày nghĩ lễ lao động, mình lên café uptown làm một số việc. 

Anh bạn alo. Mình bảo, bác qua PJ đi, em đang ở đó. Chuyện vòng vo rồi đến chuyện bạn gái. Hôm nay mình đã phải thẳng tuột: em cũng sắp đi xa rồi, chúng ta nói chuyện với nhau như 2 thằng đàn ông nhé và em hy vọng bác đừng tự ái. Là em thì việc đầu tiên là em dọn sạch đồ trong cái bếp nhà bác, ném hết chúng vào sọt rác, quẳng hết đồ ở cái phòng khách, phòng ngủ đi, rồi đi mua đồ mới, thậm chí là đồ sử dụng rồi cũng được nhưng đúng bộ, match nhau và nhìn được. 

Bác đi làm, có tiền rồi mà sống tạm bợ thế này thì không nên. Quy tắc của em là đừng để người khác thương hại mình. Nếu em là con gái, đến chơi nhà bác mà nhìn thấy cái nhà nó úi sùi và thiếu organize thế kia là em sẽ hết ấn tượng; em không thấy sự thoáng đãng cần thiết ở 1 người đàn ông. Mà đời mình không lo cứ đi lo cho thế hệ tiếp theo làm gì cho mệt. 

Trẻ con mà đầy đủ quá thì thiếu động cơ sống và thậm chí là hỏng. Và mình lại phải lặp lại cái điệp khúc: quá khứ là cái đã qua, tương lai là cái chưa đến, bác phải sống cho hiện tại đi. Không phải kiếm được nhiều tiền mà biết cách sống mới thực sự đem lại cho mình ấn tượng. 

 ******* 

Hôm rồi ghé thăm một chị người Việt ở bên này. Hỏi chuyện anh chị năm nay có về VN không? Bố anh ở VN thế nào? Anh chị lại than cái việc về tốn kém vì về thì phải lo cho người này người kia tiền nên không thể về được. 

Tôi bảo, anh chị phải thay đổi cách nghĩ đi. Sao cứ về là phải cho mọi người tiền nhỉ? Đừng làm cho người ở VN ảo tưởng rằng mình ở Mỹ là kiếm được nhiều tiền. Mỗi người phải có trách nhiệm với cuộc sống của chính họ, trừ phi ai đó thật sự đói rách thì anh chị hãy lo – mà cũng chỉ ở một mức độ vừa phải. 

Đừng cảm thấy về mà không có tiền cho các em là mất thể diện. Hình như đây là thứ bệnh sĩ chung của Việt Kiều, mà phần lớn Việt Kiều của ta làm nghề dịch vụ rất vất vả và đồng lương thì rẻ mạt chứ không nhiều nhặn gì.

 ****** 

Quay sang chuyện nhà. Tôi rất thương và quan tâm đến mọi người trong gia đình, từ bố mẹ anh chị đến các cháu. Tôi quan tâm đến mọi người bằng nhau chằn chặn, có phần ưu tiên hơn người anh kế trên tôi hiện còn có cuộc sống vất vả hơn. Nói thật, chỉ đến mấy năm gần đây tôi mới thật sự bắt đầu sống cho mình. 

Khi 2 anh tôi còn thiếu thốn, tôi cho anh lớn mượn tiền mua đất, cho anh kế tôi cái xe máy và một khoản tiền khi anh cưới vợ ra ở riêng. 

Khi mọi người ổn thì tôi thôi. Hai chị gái tôi ổn định cuộc sống sớm hơn nên tôi hoàn toàn không giúp gì và 2 chị cũng hiểu. 

Tôi có thể cho mọi người đủ mua quà mỗi dịp năm mới, hay cho bọn trẻ con chút ít để động viên chúng học hành mỗi đầu năm học thể hiện sự quan tâm của 1 thành viên trong gia đình với những thành viên còn lại. 

Tôi muốn mọi người đều hiểu ai cũng phải tự lập và lo lấy cuộc sống cho chính mình và mong các anh chị dạy các cháu với tinh thần như vậy. 

Các anh chị hiểu quan điểm của tôi nên không bao giờ hỏi mượn tiền. (Điều mà mấy người bạn tôi thi thoảng lại kêu không biết làm sao). 

 Tuy nhiên, tôi có một khoản emergency fund ở nhà cho Bố Mẹ. 5 năm rồi, tiền để ở ngân hàng thì chả thấy sinh lợi gì cả. Mọi người thấy tiền nằm yên đó thì tiếc. Một lần chị dâu tôi hỏi là cứ để đó thì mất giá, chị muốn mượn để mua đất, bao giờ Bố Mẹ cần thì chị trả lại. Một lần khác chị gái tôi cũng hỏi tương tự. Tôi bảo không được, tiền đó là để dành cho bố mẹ hoặc phòng khi gia đình có việc khẩn cấp. 

Em muốn khi nào cần thì luôn có sẵn một khoản tiền mặt ở đó. Các anh chị ai cũng có cuộc sống, nhà cửa đủ cả rồi. Nếu các anh chị muốn có mảnh đất thứ 2 thì phải tự làm lấy. 

Tôi cũng nêu rõ quan điểm cho các anh chị tôi hiểu: các anh chị và các cháu không ở mức thiếu thốn để em phải cho tiền. 

Em lo cho các cháu trên tinh thần tư vấn, động viên, chia sẻ kinh nghiệm, hướng chúng vào việc học hành và sẽ giúp chúng khi nào em cho là cần thiết.

Muốn thay đổi vận mệnh dân tộc không thể "chém gió" mãi




Tác giả: Alan Phan


1

Việc làm duy nhất để thay đổi tương lai của chúng ta là cố gắng liên tục và bền vững của từng cá nhân, từng cộng đồng, từng tầng lớp xã hội. Sự tiến bộ của hôm nay so với hôm qua mới là điều để hãnh diện hay xấu hổ, hoàn toàn không phải từ lời khen tiếng chê của người ngoài.

LTS: Trong đời sống thường nhật, ta hay bị choáng ngợp trước những lời ngợi khen, tưởng rằng mình có đẳng cấp, có vị thế quan trọng, nhưng thực ra không hẳn, nhiều khi đó chỉ là phép ngoại giao thông thường. Mở rộng ra câu chuyện bang giao quốc tế cũng không khác là bao. Giới đầu tư thường hay nói những lời "có cánh", những lời nước chủ nhà muốn nghe hơn là phê phán này kia... Do vậy muốn thay đổi vận mệnh dân tộc rất cần tỉnh táo để "sửa" mình chứ đừng để phép ngoại giao ru ngủ. TS. Alan Phan, với những trải nghiệm thực tiễn đã có một góc nhìn thú vị khi luận bàn về lòng tự tôn dân tộc. Xin gửi tới độc giả để cùng suy ngẫm thêm.

Không một dân tộc nào không có ít nhiều kiêu hãnh về nguồn gốc, dù là công dân của một siêu cường hay một nhược tiểu.

Chuyện xứ người

Cách đây 2 năm, tôi có gặp một bác sĩ người Zimbabwe vừa đến Los Angeles (Hoa Kỳ) tị nạn. Xứ sở của anh ta là một điển hình về sự sụp đổ toàn diện (a failed state) từ kinh tế, xã hội đến y tế, môi trường.... Thực ra trước đó, Zimbawe còn được gọi là Rhodesia và có mức sống cao nhất Phi Châu. Sự tụt hậu bắt đầu khi ngài Mugabe và đảng cầm quyền giành được độc lập và thống trị nước này suốt 30 năm qua. Tuy vậy, khi nói về quê hương, anh bạn này hãnh diện đến độ cực đoan, dù anh ta mới chạy trốn khỏi xứ đó vài ba tháng trước.

Trong nhiều trận đá bóng tại Mỹ, nhiều cư dân Mỹ gốc Mexico đã cổ vũ nồng nhiệt cho đội tuyển Mexico chống lại đội Mỹ, gây nhiều đề tài tranh cãi tại các cộng đồng địa phương.Nhiều người cho rằng đây là biểu hiện của mặc cảm thua kém. Tuy vậy, người Mỹ thường có tinh thần yêu nước quá khích hơn các dân tộc châu Âu. Nhiều người lại cho rằng đây là mặc cảm tự tôn?

Chuyện xứ mình

Ở Việt Nam, đề tài tự hào về dân tộc được nhắc nhở khá nhiều tại mọi kênh truyền thông khắp nước. Sĩ diện của xã hội cũng bày tỏ rất sôi nổi khi năm ngoái, một trận chung kết giữa Việt Nam và Mã Lai sẽ quyết định chức vô địch cho một giải gì đó ở Asean. Cả thành phố chuẩn bị cho một cuộc náo loạn của vài chục ngàn cổ động viên "đi bão" bằng xe gắn máy trên đường phố. Tiếc là Việt Nam đã thua và tôi mất đi một kinh nghiệm quý báu để quan sát sự biểu dương về tự hào dân tộc.


Có lẽ vì lòng yêu nước cực độ, người Việt Nam hay quan tâm lo lắng không biết là người nước ngoài nghĩ gì và có đánh giá cao dân tộc và xứ sở này?

Một anh bạn doanh nhân người Anh sống ở Hà Nội hơn 7 năm qua cho biết, câu hỏi ông phải trả lời nhiều nhất trong mọi cuộc gặp gỡ quan chức cũng như dân cư là "Ông nghĩ thế nào về Việt Nam?".

Có vẻ như trên thế giới, ngay cả người Trung Quốc, nơi sinh ra của văn hoá sĩ diện, cũng không sánh bằng chúng ta về tinh thần tự hào dân tộc. Do đó, không lạ gì khi những tít lớn của các tờ báo và kênh truyền thông là những lời phát biểu ngợi khen Việt Nam của các nhà ngoại giao hay một nhân vật nước ngoài vừa đến thăm. Có lẽ tác giả các bài viết chưa hiểu rõ định nghĩa của danh từ "ngoại giao".

Bình tĩnh trước những ngợi khen

Cách nay 4 năm, tôi tháp tùng một phái đoàn thương mại của các doanh nhân Hồng Kong qua thăm Pakistan tìm hiểu về cơ hội đầu tư. Kết thúc cuộc viếng thăm 5 ngày do chính phủ Pakistan tổ chức là một cuộc họp báo tại sân bay Karachi. Sau nhiều câu hỏi về đủ mọi đề tài dành cho các đại gia nổi tiếng của Hồng Kong, một ký giả đã chỉ đích danh tôi, "Ông là một nhà kinh tế học, vậy xin ông cho biết ông nghĩ gì về kinh tế Pakistan?".

Trước đó không lâu, tôi ở lại Việt Nam suốt 2 tháng trời nên có câu trả lời thông suốt, "Pakistan là một quốc gia rất nhiều tiềm năng, nhiều tài nguyên thiên nhiên, với một dân số trẻ trung, năng hoạt, giá nhân công rẻ so với các quốc gia quanh vùng và có một nền chính trị tương đối vững vàng (lúc đó Musharraf còn đang nắm quyền). Tôi không thấy gì có thể ngăn cản Pakistan trở thành một nước phát triển kinh tế nhanh chóng nhất ở thị trường mới nổi". Dĩ nhiên tôi không thể nói gì khác hơn. Họ đã tiếp đãi chúng tôi rất nồng nhiệt và mời chúng tôi những bữa ăn sản vật ngon miệng.

Tôi cũng để ý rằng, các nhận định rất tích cực của các nhà quản lý đầu tư các quỹ nước ngoài tại Việt Nam tại các buổi hội thảo, phỏng vấn... đã được rầm rộ quảng bá trên các kênh truyền thông. Đây là những nhân vật mà lẽ sống (raison d'etre) là tìm cho được các khách hàng có tiền để đầu tư vào Việt Nam. Nếu họ nói ngược lại những gì mà chúng ta và khách hàng của họ đang mong đợi thì đây mới thật sự là chuyện lạ, đáng làm tít lớn.

Ngược lại, cũng có nhiều nhà phê bình trong chúng ta với thái độ khá nghiêm khắc về các vấn nạn quốc gia, từ văn hoá, xã hội đến kinh tế, môi trường. Dựa trên những chuẩn mực khá cao của các xã hội Âu-Mỹ, họ đánh giá Việt Nam có phần tiêu cực và bi quan. Họ đưa ra những đòi hỏi và giải pháp không thực hiện nổi trong một thực tế khó khăn và một cơ chế có những phần phức tạp như Việt Nam. Dù ước muốn của họ chỉ là tìm kiếm một giải pháp cấp tốc cho mọi vấn đề và tiếng nói họ cũng đã thể hiện tinh thần yêu nước sâu đậm, nhưng sự mong đợi quá mức có thể gây tác hại ngược lại: đó là hậu quả cho những thất vọng nặng nề sau này.

Một quốc gia có thể được đánh giá cao hay thấp trong nấc thang văn minh nhân loại dựa trên nhiều yếu tố: văn hoá, nghệ thuật, lịch sử, kinh tế, chính trị, giáo dục, thiên nhiên, môi trường, dân trí và ngay cả thể thao. Mỗi yếu tố đều có một thước đo có thể định lượng, dù với những tài sản vô hình.

Nhiều cơ quan trên thế giới đã định giá các quốc gia bằng đủ các chỉ số, từ chỉ số hạnh phúc đến chỉ số tham nhũng (không biết dựa vào số liệu nào?), dĩ nhiên là dựa trên các chuẩn mực rất chủ quan của các nước Tây phương. Nhưng tựu trung, tôi nhận xét thấy con số quan trọng nhất vẫn là GDP hay mức thu nhập mỗi đầu người (GDP or GNI per capita).

Chỉ số giàu nghèo này định đoạt nhiều bậc thang giá trị khác. Một nước giàu thường có thiên nhiên xanh, môi trường sạch, y tế giáo dục chất lượng, văn hoá nghệ thuật xúc tích, khoa học tiến bộ, dân trí đạo đức cao cấp. Một ví dụ là Ai Cập có một nền văn minh cổ đại và lịch sử phong phú, nhưng vì là nước nghèo, nên văn hoá truyền thống của họ không phổ biến và được tôn trọng bằng các quốc gia Âu Mỹ. Cho nên ngay cả các định giá này, dù thực dụng, cũng chưa chắc đã chính xác theo khoa học.

Báo cáo năm 2009 của Chỉ Số Hạnh Phúc Toàn Cầu (Happy Planet Index) xếp Việt Nam vào hạng thứ 5 của thế giới. Trong khi đó, Đan Mạch và Newzeland xếp hạng thứ 102 và 105. Dù người Việt hạnh phúc hơn, nhưng ai cũng biết là quốc gia và dân tộc nào được kính nể và tôn trọng hơn khi đi tiếp cận với nước ngoài. Theo giáo sư Trần Hữu Dũng của đại học Wright State, "ta cần biết ta hơn nữa để hoạch định chính sách kinh tế, để biểu hiện căn tính của một xã hội văn minh... và phải dưa cái "biết" này trên căn bản độc lập, đa dạng và công khai". Bởi lẽ, "không biết mình thì làm sao trăm trận trăm thắng được"?


Việt Nam không tệ, nhưng chưa có nhiều xuất sắc

Vì đã sống liên tục 26 năm ở Mỹ và sau đó, sống cũng như công tác liên tục hơn 22 năm qua tại 32 quốc gia khác nhau từ Nam Mỹ, Phi Châu đến Á Châu và Úc, tôi hay bị "điều tra" để so sánh về bậc thang giá trị giữa nhiều quốc gia và dân tộc. Về Việt Nam, cảm nhận chủ quan của tôi như sau:

Những vấn nạn hiện tại của Việt Nam như kinh tế, tài chính hay y tế, giáo dục, môi trường và dân trí... đều rất quen thuộc với các quốc gia trong tình trạng "mới nổi". Các vấn nạn này, 15 năm trước Trung Quốc đã trải nghiệm, 30 năm trước Thái Lan đã phải đối đầu, 60 năm trước Nhật Bản đã phải vượt qua và 100 năm trước, nước Mỹ đã tìm cách giải quyết. Chúng ta chậm hơn người, nhưng lại có lợi thế là có thể dùng kinh nghiệm của kẻ đi trước để tránh nhiều sai lầm.

Chúng ta có thể lạc quan mà nghĩ rằng Việt Nam sẽ "đi tắt đón đầu" như chiến thuật của ông Bình ở Vinashin; hay chúng ta có thể bi quan mà cho rằng Việt Nam sẽ không bao giờ "vượt bẫy thu nhập trung bình" như nhiều chuyên gia lo ngại. Thực sự, tôi tin rằng không ai có thể đoán được.

Theo những hành xử trong quá khứ thì người Việt chúng ta có nhiều kỹ năng đặc biệt như khôn ngoan, cần cù, cầu tiến, can đảm... nhưng cũng vướng nhiều khuyết điểm như manh mún, hình thức, cẩu thả... Xét về thành quả đã qua, thì kinh tế, xã hội Việt Nam đã phát triển chậm hơn các quốc gia đang mở mang khác (tính từ 1975 sau khi có hoà bình). Nói tóm lại, trong một lớp học của thế giới, thì cậu học trò Việt được xếp hạng một chút dưới trung bình. Không quá tệ để xấu hổ, nhưng cũng chưa có nhiều xuất sắc để hãnh diện.

Theo kinh nghiệm, một cậu học trò do có thể tìm một nghị lực và phương pháp học mới hơn để đạt tiến bộ nhanh và trở thành một học trò đầu bảng. Ngược lại, một anh sinh viên ưu tú có thể gặp một mối tình ngang trái và suy sụp đến độ bỏ học. Không ai có thể ngăn cản Việt Nam trở thành một học trò đầu bảng, và tôi hy vọng đất nước này sẽ may mắn không trải qua nhiều câu chuyện ngang trái.

Thực ra, dù nhìn trên khía cạnh nào, chuyện tự hào dân tộc không đáng để chúng ta quá lưu tâm, vì nó không ảnh hưởng gì đến tương lai của xứ sở. Cổ vũ cho một đội nhà nồng nhiệt và hoành tráng đến đâu cũng không làm thay đổi kết quả trận đá bóng (đôi khi còn có hậu quả ngược lại vì làm các vận động viên quá căng thẳng). Việc làm duy nhất để thay đổi tương lai của chúng ta là cố gắng liên tục và bền vững của từng cá nhân, từng cộng đồng, từng tầng lớp xã hội. Sự tiến bộ này của ngày hôm nay so với ngày hôm qua mới là thành quả để hãnh diện hay xấu hổ, không phải là lời khen tiếng chê từ người ngoài.

Người Mỹ có câu nói: "Ở lứa tuổi 20, ta thường rất quan tâm đến suy nghĩ của người khác về mình. Ở lứa tuổi 40, ta thường mặc kệ ai muốn nghĩ sao về mình cũng được. Cho đến lứa tuổi 60, ta mới khám phá ra rằng là chẳng ai nghĩ gì về mình cả."
Về tác giả: TS. Alan Phan là Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư Viasa tại Hông Kong và Shanghai. Du học Mỹ từ năm 1963, ông đã làm việc tại nhiều công ty đa quốc gia ở Wall Street và phát triển công ty Hartcourt của mình thành một tập đoàn niêm yết trên sàn Mỹ với thị giá hơn 700 triệu dollars. Ông sống và làm việc tại Trung Quốc từ năm 1999. TS. Phan tốt nghiệp BS tại Penn State (Mỹ), MBA tại American Intercontinental (Mỹ), Ph.D tại Sussex (Anh) và DPA tại Southern Cross (Úc).

Nhà văn Phạm Viết Đào:Thế sự-Văn chương: BA LẦN BÁC CƯỜI TRƯỚC LÚC ĐI XA

Nhà văn Phạm Viết Đào:Thế sự-Văn chương: BA LẦN BÁC CƯỜI TRƯỚC LÚC ĐI XA: "Vương Tinh Minh.( * )-Bài hát cuối cùng Bác Hồ nghe trước khi nhắm mắt xuôi tay là một bài ví dặm Nghệ T..."