Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2009

Vì sao phải đọc sách?

Đọc sách để khám phá thế giới, khám phá lịch sử. Nhưng quan trọng hơn, đọc sách là khám phá bản thân mình...

Đó là điều mà hầu như ai cũng biết, nhưng vẫn không có nhiều người đọc sách. Họ không có nhu cầu tìm đến những kiến thức kể trên? Có đấy chứ! Vậy tại sao số người đọc sách vẫn ít?

Thời gian đọc sách trung bình trong tuần của một người Việt Nam tương đối thấp (điều này chắc bạn tự kiểm nghiệm bản thân, sẽ biết ngay). Nguyên nhân chính là do nhiều người chưa rõ mục đích lâu dài và tầm quan trọng thật sự của việc đọc sách, đặc biệt là giới doanh nhân, những người mà thời gian còn quý hơn cả vàng. Vậy hãy thử đi tìm các lý do khiến chúng ta không thể... không đọc sách.

Đọc để sống một cuộc đời

Một cuốn sách có giá trị luôn được tác giả, có khi không phải là một mà là nhiều người "vắt tim, vắt óc" viết ra. Vì vậy, có thể nói không quá là những điều đúc kết từ sách là cả một đời người, hoặc cả thế hệ của nhiều người đã sống và chiêm nghiệm.

Cuộc đời chúng ta không đủ dài để có thể "thu gom" trí tuệ nhân loại bằng cách tự mình sống để lấy kinh nghiệm. Vậy cách hay nhất là sống qua cuộc đời nhiều người trên từng trang sách. Tiếp cận với các tác giả nổi tiếng, những người thành công, chúng ta có thể rút ngắn được con đường đến đích của mình từ những bài học của họ. Bạn có thể học hỏi kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau: từ kinh nghiệm của chính mình, từ cuộc sống, trường lớp, từ người khác và qua sách vở. Ngày nay, kiến thức thay đổi với tốc độ chóng mặt. Sách chính là người thầy tuyệt vời mà bạn có thể cận kề mọi lúc, mọi nơi, giúp cập nhật kiến thức nhanh và toàn diện nhất.

Đọc để có tư tưởng mới

Trong số kiến thức mà bạn cần cho đời sống, sự hiểu biết về bản thân là quan trọng nhất. Hãy khám phá bản thân, bạn sẽ thấy toàn bộ vũ trụ.

Sách chính là người thầy cần mẫn và "không lạc hậu”, giúp bạn học hỏi về cuộc sống và tìm hiểu chính mình. Qua đó, bạn sẽ phát triển các tiềm năng vô biên của bản thân.

Không phải làm doanh nhân là bạn chỉ đọc sách về kinh doanh, quản lý, bí quyết lãnh đạo... Có nhiều thể loại sách khác cũng rất cần thiết cho tất cả mọi người để tăng vốn sống, vốn hiểu biết. Việc đọc sách còn giúp chúng ta phát triển tư duy và khả năng sáng tạo, tăng trí tưởng tượng và có những quan điểm đột phá.

Thỉnh thoảng, ngoài các loại sách liên quan đến chuyên môn của mình, bạn nên đọc những cuốn có đề tài lạ, thậm chí đề tài mà bạn không hề thích, để kích thích bộ não "suy nghĩ vượt khung”, tiếp cận với những khía cạnh mới mẻ.

Đọc để... thư giãn

Khi cầm cuốn sách trên tay với mục đích đọc sách rõ rệt trong đầu (phải có lý do khi đọc từng cuốn), bạn sẽ tập trung trí não và cảm xúc để hấp thu nội dung và cảm nhận giá trị cuốn sách.

Trước khi đọc, hãy nghĩ đến các vấn đề hay thắc mắc bạn đang muốn tìm lời đáp. Việc tập trung trong lúc đọc sách sẽ mớ ra cho bạn hướng tháo gỡ. Lúc ấy, cuốn sách sẽ trở nên vô giá.

Việc tập trung cũng giúp trí não được thư giãn. Khi đó, bạn sẽ thả hồn vào từng trang sách, đưa trí tưởng tượng vươn đến những miền đất mà mắt thường không thể nhìn thấy.

Chắc chắn, bạn cũng sẽ cảm nhận được nhiều điều kỳ thú, đôi khi hơn cả một chuyến đi du lịch.

Khi trí óc đã gặt hái nhiều điều mới mẻ, nó sẽ không còn ở tầm vóc bình thường nữa. Vậy bạn còn chờ gì nữa?

Mỗi ngày, chỉ cần dành khoảng 15 phút để đọc sách là có thể hoàn thành 7 trang sách. Điều này có nghĩa, mỗi tháng bạn xem xong một cuốn sách dày khoảng 200 trang mỗi năm 12 cuốn sách. Và sau 10 năm, bạn xem được 120 cuốn sách.

Thử tưởng tượng, nếu tăng gấp đôi thời gian đọc sách lên 30 phút mỗi ngày, bạn sẽ có trí tuệ của... 240 cuốn sách, sau 10 năm.

Vậy từ nay, mong rằng sẽ không còn ai nói: "Tôi muốn đọc sách lắm, nhưng không có thời gian”!

Theo Tạp chí Thành đạt

Chất lượng của tư duy và cuộc sống



Hãy nghĩ về một hạt giống. Nó giống như một điểm sáng - bé nhỏ nhưng chứa đựng tiềm năng của sự sống. Một suy nghĩ cũng giống như thế. Một suy nghĩ là một hạt giống chờ đợi sự nảy mầm.

Một hạt giống có thể mang đến cả sự tích cực lẫn tiêu cực, phụ thuộc vào trạng thái, quan điểm và tính cách của người gieo trồng hay của chính bản thân chúng ta. Suy nghĩ tạo nên những cung bậc cảm xúc và thái độ. Sự kết hợp của những điều này được gọi là ý thức. Ý thức là khả năng suy nghĩ, lập luận và biểu đạt. Tất cả những điều này bắt đầu chỉ bằng một suy nghĩ.

Bạn có bao giờ dừng lại để quan sát những suy nghĩ của mình? Bạn có bao giờ nghĩ tới việc đặt một dấu chấm hỏi cho suy nghĩ của mình? Hầu hết chúng ta đều để cho chúng "chạy lung tung", lang thang khắp các ngõ ngách trong tâm trí. Những suy nghĩ rơi vãi, không được kiểm soát như một chiếc xe đang phóng nhanh, nếu không kịp đạp thắng, tai nạn có thể xảy ra. Một tâm trí không được kiểm soát thì đầy căng thẳng, lo lắng. Điều này có thể gây ra nhiều tổn hại cho tinh thần lẫn thể chất của chúng ta.

Chúng ta cần biết dừng lại nếu muốn tâm trí hoạt động một cách tự nhiên. Bản chất tự nhiên của tâm trí là bình an và một tâm trí bình an sẽ mang lại sự sáng suốt. Khi nhìn sự việc một cách thông suốt, chúng ta sẽ không làm lãng phí năng lượng tinh thần của mình. Tâm trí ta không bị chồng chất nặng nề bởi những suy nghĩ không cần thiết. Căn bệnh tai hại nhất của tâm trí chính là suy nghĩ quá mức, đặc biệt là suy nghĩ quá nhiều về người khác: người ta làm gì, lẽ ra người ta phải làm gì, họ đã nói gì, ta muốn họ phải nói gì, tại sao họ cứ nói thế... Những suy nghĩ này bào mòn sự thanh thản vốn có trong tâm trí ta.

Nghĩ quá nhiều cũng giống như ăn quá nhiều. Sự nặng nề khiến cơ thể cũng như tâm trí không thể duy trì được sự nhẹ nhàng và linh động. Chúng ta dễ bị mắc kẹt vào những điều vụn vặt, và dần dà, những điều vụn vặt này trở thành những điều to tát mà chúng ta không thể rũ bỏ được. Khi chúng ta suy nghĩ quá nhiều, chúng ta thường thổi phồng sự việc và phản ứng quá đáng. Và điều đó khiến chúng ta tạo ra những cảm xúc tiêu cực.

Quan sát sẽ tốt hơn rất nhiều so với việc tiếp nhận qua lời nói, cảm xúc và thái độ, cũng sẽ tốt hơn nếu so với việc tham gia quá đáng hay phản ứng thái quá. Việc quan sát mang lại cho ta lòng kiên nhẫn và sự sáng suốt để suy nghĩ và hành động thích hợp. Quan sát cũng tạo nên một sự tập trung vào nội tâm và cho phép nhìn thấy sự thật.

Chúng ta thường bị tác động bởi lời nói và ý kiến của người khác. Vì vậy, để sự bình yên trở về với tâm trí, chúng ta cần cuộc hành trình hướng nội. Cuộc hành trình này giúp chúng ta lấy lại sự quân bình và không lãng phí sức lực. Chúng ta cần học nghĩ trước khi nói, quan sát trước khi hành động. Nếu không, sự quá khích của suy nghĩ, lời nói và hành động cuối cùng sẽ tạo nên sự rối loạn về tình cảm, thần kinh và thể chất. Sự rối loạn này dẫn đến mệt mỏi, căng thẳng, cảm giác bất ổn và sợ hãi.

Nếu không tự kiểm soát được bản thân mình thì chúng ta sẽ bị người khác làm việc này. Lúc đó, có thể ta sẽ phản ứng lại, sẽ than vãn, sợ hãi hoặc khó chịu vì sự kiểm soát. Vì vậy, chúng ta hãy học cách quan sát nội tâm, đi vào nội tâm và làm chủ bản thân.

Ai đó đã nói rằng tâm trí chúng ta nằm ngay ở lưỡi. Điều đó có nghĩa là suy nghĩ có quan hệ mật thiết với lời nói. Chúng ta sẽ nói những gì mình suy nghĩ. Lời nói tích cực hay tiêu cực cũng đều ảnh hưởng đến người khác. Nếu ta nói những lời nặng nề hay chỉ trích, người khác sẽ phản ứng lại, họ sẽ trả lại chúng ta những gì họ nhận được. Có thể xem như đó là trò đánh bóng bàn về lời nói và cảm xúc. Có khi, lời qua tiếng lại trở nên dữ dội như một trận đấu võ đài chứ không còn đơn giản, nhẹ nhàng như một trận bóng bàn nữa.

Chúng ta suy nghĩ như thế nào thì sẽ nhận thức như thế ấy, và chúng ta nhận thức như thế nào thì cuộc đời chúng ta sẽ như thế ấy. Hãy tưởng tượng chúng ta đang gieo một hạt giống suy nghĩ trong sáng và tích cực. Nếu chúng ta tập trung vào suy nghĩ này, dồn sức lực cho nó, tương tự như mặt trời trao năng lượng cho cây cỏ trên mặt đất, suy nghĩ đó sẽ thức giấc, chuyển mình và bắt đầu lớn lên. Khi ta có những lời nói và hành động tích cực, phẩm chất của ta - cũng như một hạt giống đủ điều kiện về dinh dưỡng và sự chăm sóc - sẽ thức dậy, chuyển mình và trưởng thành. Vì vậy, chúng ta hãy gieo những suy nghĩ tích cực.

Mỗi sáng, trước khi bắt đầu hành trình một ngày mới, chúng ta hãy dành một vài phút ngồi trong tĩnh lặng và gieo hạt giống bình yên. Bình yên là sự hài hòa và quân bình. Bình yên là sự tự do, thoát khỏi gánh nặng của sự tiêu cực và lãng phí. Bình yên là sức mạnh nguyên thủy vốn có trong ta, là sự tĩnh lặng bất tử cho sự tồn tại của chúng ta. Hãy để bình yên tìm thấy mái nhà của nó trong lòng chúng ta.

Hãy để suy nghĩ đầu tiên trong ngày của bạn đơn giản chỉ là được bình yên. Hãy gieo hạt giống này. Tưới cho nó bằng sự quan tâm, chăm sóc, và bạn sẽ thu họach được vụ mùa của sự điềm tĩnh.

Theo First News

Giảm stress - hãy tự chủ!



Giảm stress - hãy tự chủ!

Chìa khóa để giải toả stress là bạn phải biết cách chủ động điều chỉnh bản thân mình.

Stress là gì?

Trong guồng quay không nghỉ của cuộc sống hiện đại, stress trở thành một căn bệnh phổ biến trong xã hội. Mỗi ngày chúng ta phải đối mặt với bốn loại stress: về thể chất, xúc cảm, tư duy và môi trường. Stress có rất nhiều tác động tiêu cực đến đời sống cảm xúc, năng suất làm việc cũng như sức khoẻ của con người.

Nhiều giải pháp giúp giảm stress đã được đưa ra, song việc thực hiện chúng chưa thực sự đem lại hiệu quả. Hậu quả là nhiều người trở nên “mãn tính” với căn bệnh stress của mình mà không có cách thoát ra được.

Làm thế nào để tự chế ngự stress?

Chúng ta đều biết tự chủ là cách tốt nhất để tránh cho bản thân khỏi ảnh hưởng của các tác nhân bên ngoài. Niềm vui và sự hứng thú trong cuộc sống, phương thuốc công hiệu cho căn bệnh stress, cũng cần phải được rèn luyện. Hãy suy ngẫm xem bạn đã thực sự biết cách chế ngự tâm lý bản thân để thoát khỏi sự đeo đẳng của căn bệnh phiền toái này chưa?

Một thời gian biểu dày đặc cùng với những bận rộn liên tiếp cứ cuốn bạn đi ngày này qua ngày khác. Bạn chẳng còn đủ thời gian dành cho bản thân, cho những mong muốn hay bản năng sáng tạo cuả riêng mình. Hãy biết dừng lại, dù chỉ một lát thôi, để các giác quan của bạn được thưởng thức những âm thanh và cảm xúc của thế giới quanh bạn. Bạn đã bao giờ dừng lại trong giây lát để tự hỏi: “Mình đang đi đến đâu? Mình sẽ làm gì?”

Học cách tự tìm cho mình một khoảng thời gian và không gian yên lặng để được thư giãn và lấy lại tinh thần chính là liều thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất cho sự mệt mỏi và kiệt sức gây ra bởi stress. Tĩnh lặng đồng nghĩa với quan sát và cảm thụ, để được trở về với bản năng sống tự nhiên. Một vài giây phút thiền sẽ là giải pháp lí tưởng để bạn tìm lại sự tĩnh lặng vô cùng quí giá này. Nói ngồi thiền không có nghĩa là bạn phải “trang bị” cho mình tràng hạt, toà sen hay những cây nến.Chỉ một hình ảnh khiến bạn chú ý hay một câu nói giúp bạn tập trung là đủ giúp bạn mở cánh cửa đến với sự tĩnh tại sâu lắng cần thiết.

Một vài giây phút thiền có thể đem lại những hiệu quả giảm stress rõ rệt. Nó giúp bạn chủ động quan sát sự việc với một thái độ điềm tĩnh chứ không phải phản ứng lại một cách tiêu cực. Đó là khi bạn tìm thấy động lực thực sự của những việc mình làm và đánh giá đúng vị trí của bản thân để không phải so sánh hay đố kị với người khác. Mỗi đêm trước khi đi ngủ, thay vì lo lắng suy nghĩ về những thất bại hay những công việc chồng chất chưa kịp thời hoàn thành, hãy thư giãn để có được một giấc ngủ ngon. Giấc ngủ sâu sẽ giúp bạn lấy lại năng lượng cho một ngày làm việc hiệu quả hơn cho ngày hôm sau. Bạn cũng không nên quá khắt khe với bản thân, hãy để công việc cho ngày hôm sau nếu hôm nay bạn không đủ khả năng hoàn thành.

Khi đã rèn luyện cho bản thân cách tìm lại những khoảnh khắc tĩnh tại thực sự, bạn sẽ cảm thấy vui vẻ hơn, khoẻ khoắn hơn và tự tin hơn mà không có một loại dược liệu hay thực phẩm nào có thể làm được!

Hãy sống vui vẻ!

Những lo lắng, phiền muộn, thất bại và chán nản là rào cản trên con đường tìm lại niềm vui sống của bạn. Hãy luôn mở rộng tâm hồn mình để những tia sáng của niềm tin và sự vui vẻ tràn ngập trở lại trong bạn mỗi ngày.

Chớ dằn vặt hay quay lưng lại với bản thân khi bạn phải đối mặt với những rắc rối hay nỗi buồn. Hãy nhìn nhận lại vấn đề một cách bình thản và tìm lại niềm vui cho bản thân ngay cả trong tình huống tồi tệ nhất.

Luôn đối xử tốt với tất cả mọi người bằng cách tự nguyện giúp đỡ họ khi cần thiết hay đơn giản là mỉm cười khi gặp họ hoặc giữ cánh cửa để họ cùng bước vào. Khi bạn đã biết cách đối xử tử tế với mọi người cũng có nghĩa là bạn biết cách sống tốt hơn cho bản thân.

Hãy thoải mái thể hiện cá tính và suy nghĩ của bạn qua cách ăn mặc không quá gò bó hay thể hiện óc hài hước của bạn trong những tình huống phù hợp.

Luôn vui vẻ và thoải mái với bạn bè hay đồng nghiệp. Bạn sẽ dễ dàng trở thành một nhân tố của cuộc vui khi cùng tham gia với nhiều người!

Hãy tìm cơ hội để được vận động và sống giữa thiên nhiên như những dịp leo núi picnic cùng bạn bè, đi dạo trên bãi biển hay đạp xe thư giãn... Hãy tiếp nhận năng lượng cùng sự sảng khoái trong không gian tự nhiên một cách tự do và thoải mái nhất.

Tự tìm cho mình niềm vui trong công việc hay trong bất cứ tình huống nào. Cho dù bạn đang dọn dẹp nhà cửa hay đang phải giải quyết một vấn đề khó khăn đi chăng nữa, bạn vẫn có thể tìm thấy những điều hài hước thú vị. Hãy mở nhạc khi bạn đang dọn dẹp hay đưa ra những lời nhận xét dí dỏm về người đồng sự để tạo không khí thoải mái khi làm việc. Bạn sẽ tự mình giải toả stress vô cùng hiệu quả đấy!

Chỉ tập trung vào việc bạn đang làm. Bạn không thể vừa làm một việc trong khi mải lo lắng về những việc chưa hoàn thành khác. Sự tập trung sẽ đem lai hiệu quả rõ rệt cho công việc của bạn đồng thời giúp bạn tránh khỏi cảm giác căng thẳng.

Theo DNSG

Rạng đông của lãnh đạo mới

Nguồn VNN

Obama đắc cử Tổng thống Mỹ. Cả đất nước đã vượt qua mọi thành kiến, đồng loạt trả lời "Yes we can!" để đưa một người mà tiêu chuẩn lựa chọn rốt cuộc chỉ là tài năng lên lãnh đạo. Một dân tộc có khả năng vượt qua những cản trở ghê gớm như vậy chính mình thay đổi là một dân tộc kỳ diệu, đáng phục, đáng kính. Với dân tộc đó, người lãnh đạo đó, tin ở "lãnh đạo mới" mở ra trong nội bộ nước Mỹ là niềm tin có lý do. Từ niềm tin có lý đó, thế giới cũng có lý do để đón nhận cam kết "lãnh đạo mới".

"Một rạng đông mới trong lãnh đạo của nước Mỹ đang ở trong tầm tay"

Hai khẩu hiệu tranh cử đã đưa ông Barack Obama đến thắng lợi là "thay đổi" và "hy vọng". Trong khi chờ đợi ông lên nhậm chức, thế giới có thể hy vọng gì nơi thay đổi của nước Mỹ?

Câu trả lời nằm chính trong diễn văn đắc cử của tân tổng thống: một "rạng đông mới trong lãnh đạo". Nguyên văn: "một rạng đông mới trong lãnh đạo của nước Mỹ đang ở trong tầm tay". Đó là cam kết long trọng. Cam kết đó, ông gởi cho các lãnh tụ quốc gia và, đây mới là chuyện lạ, ông gởi đến cho cả "những người đang chen nhau để nghe quanh các đài phát thanh trong tận hang cùng ngõ hẻm bị bỏ quên khắp thế giới".

Câu nói kỳ lạ! Tin tưởng kỳ lạ! Chính những câu nói, những tin tưởng kỳ lạ đó đã làm nên hiện tượng Obama. Có ông tổng thống đắc cử nào trong lịch sử nước Mỹ lởn vởn trong đầu ý tưởng rằng dân cùng khổ trên khắp thế giới đang lắng tai hồi hộp nghe diễn văn đắc cử của ông? Phải là một Obama có cha ruột là thường dân ở xứ Phi Châu Kenya, có cha ghẻ là thường dân ở xứ Á Châu Indonesia, từng chung đụng với nghèo khổ của cùng đinh trong thế giới nghèo mạt, mới có cái ý nghĩ lạ lùng như thế ngay trong men say của chiến thắng, ý nghĩ rằng một tin thắng cử ở cái nước giàu mạnh nhất thế giới kia có liên hệ hữu cơ với dân khố rách trên khắp thế giới. Ông tân tổng thống nước Mỹ là thành phần của tập thể khố rách áo ôm!

Câu nói đó là phần nối dài của một tư duy sâu thẳm đã đưa ông Obama từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong suốt thời gian tranh cử. Bốn năm trước đó, tại Đại hội của đảng Dân Chủ, trong một bài diễn văn khiến người ta bắt đầu biết đến ông, ông nói đến "niềm tin rằng chúng ta dính chặt với nhau như một dân tộc". "Chúng ta" ở đây hãy còn là da trắng và da màu. Xuyên suốt mùa tranh cử, ông không hề rời khỏi ý nghĩ căn bản đó. "Trong nước này, chúng ta đi lên hay rơi xuống như là một quốc dân, một dân tộc". Diễn văn đắc cử lặp lại: "Chuyện của mỗi cá nhân chúng ta là chuyện riêng, nhưng số phận của chúng ta là chia sẻ". Tiếp theo đó là "rạng đông mới của lãnh đạo Hoa Kỳ nằm trong tầm tay" và dân cùng khổ chen nhau nghe ông nói. Từ màu da khác nhau trong cùng một cộng đồng dân tộc, tập thể mà ông vươn tới là cộng đồng thế giới. Ông không nghĩ rằng nguồn gốc của phân biệt nằm nơi màu da ; nguốn gốc đó nằm trong bất bình đẳng giàu nghèo.

Từ bất bình đẳng trong nước ông, ông vươn tới bất bình đẳng trên thế giới. Cả con người của ông, cả gốc gác của ông, cả máu huyết của ông, tất cả nơi ông đã tạo ra niềm tin đó, và ông truyền được niềm tin đó cho tập thể. Cho nên thế giới có lý do để tin rằng rạng đông mà ông cam kết nằm trong tâm khảm của ông.

Tưởng tượng cái mới, tốt nhất là suy nghiệm trên cái cũ

Bất cứ ai viết về ngoại giao Hoa Kỳ đều nói: tổng thống thay đổi, lợi ích cốt tủy của nước Mỹ vẫn chừng ấy. Hồi 1945, tổng thống Truman đã phát biểu: "Hoàn cảnh thay đổi, nhưng bên dưới, những vấn đề trọng đại vẫn là những vấn đề ấy - thịnh vượng, phong phú, nhân quyền, dân chủ thực sự, và trên hết, hòa bình"(1). Dưới nét mực này hoặc ngòi bút khác, diễn văn đắc cử của các tân tổng thống đều xoay quanh chừng ấy đề tài. Phương thức lãnh đạo cũng vậy: khác nhau trên bề mặt, cũng chừng ấy tranh luận trong bề sâu. Vậy làm thế nào thế giới tưởng tượng ra được rạng đông của tổng thống Obama?

Tưởng tượng cái mới, tốt nhất là suy nghiệm trên cái cũ. Thế giới đã đổi khác từ khi Liên Xô tan vỡ, hãy lấy cái cũ gần đây làm mốc để xem cái mới có thể mới ở đâu, từ đâu, do đâu. Cái mốc ở đây là chính quyền Clinton, tổng thống đầu tiên đắc cử sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, đưa nước Mỹ lên địa vị bá chủ toàn cầu. Thế nào là "lãnh đạo" trong tình thế hoàn toàn mới đó?

Đây là trả lời của ông Warren Christopher, người nắm "chính sách ngoại giao mới" của tổng thống Clinton vừa đắc cử: "Lãnh đạo của nước Mỹ là nguyên tắc đầu tiên của chúng ta và cũng là bài học then chốt của thế kỷ này. Sự kiện đơn giản là nếu ta không lãnh đạo, không ai khác sẽ lãnh đạo. Thế giới đã thành ra gì nếu không có lãnh đạo của nước Mỹ trong vòng hai năm vừa qua?" Thành ra gì? Hỗn loạn về nguyên tử, hỗn loạn về mậu dịch, hỗn loạn về độc tài, hỗn loạn về chiến tranh. Rồi ông nói tiếp: "Lãnh đạo của nước Mỹ đòi ta phải tạo hậu thuẫn cho một nền ngoại giao bền bỉ bằng cách đe dọa dùng vũ lực thế nào để kẻ thù phải sợ và đòi hỏi ta phải hành động đơn phương khi cần thiết để bảo vệ lợi ích của ta. Ta không phải là sen đầm quốc tế, nhưng cam kết của ta và sức mạnh của ta có thể có tính quyết định. Và nếu ta quyết định gởi quân đội ra bên ngoài, ta sẽ gởi với một nhiệm vụ rõ ràng và với những phương tiện để thắng".

Lặp lại cho rõ và cho gọn: ngoại giao phải được hậu thuẫn bằng vũ lực, và vũ lực, nếu cần, có thể sử dụng đơn phương. Nguyên tắc ấy không lạ. Nước lớn nào mà không nói như vậy? Khi gặp vấn đề gì được xem là sống chết, nước lớn nào không dành quyền hành động đơn phương? Nước nhỏ cũng vậy thôi: có gì quý hơn độc lập, tự do? Huống hồ, ông Christopher cẩn thận nói rõ: đơn phương là biện pháp tối hậu, "lãnh đạo của Hoa Kỳ cũng đòi hỏi ta phải vận dụng sự ủng hộ của đồng minh, của bạn bè, của các tổ chức quốc tế để hoàn thành mục tiêu chung" (2) .

Định nghĩa nói trên không mấy độc đáo. Vậy thì cái gì là quan trọng đàng sau định nghĩa thường thường bậc trung ấy? Cái này: nước Mỹ sẵn sàng can thiệp bằng vũ lực khi cần. Lời nhắn nhủ ấy gởi đến cho cả bên trong lẫn bên ngoài nước Mỹ. Bên trong, thất bại ở Việt Nam phải không còn đè nặng nữa trên dư luận và trên chính giới. Bên ngoài, quyết tâm của nước Mỹ phải được xem là thực. Hổ thật, không phải hổ giấy. Nước Mỹ của Clinton sẽ sử dụng vũ lực một cách thông minh hơn, hữu hiệu hơn, nhưng nước Mỹ cam kết dùng vũ lực để bảo vệ đồng minh và để bảo vệ quyền lợi thiết yếu của mình.

Hoa Kỳ gánh một sứ mạng quốc tế. Đó là "biệt lệ" của nước Mỹ

Vấn đề là: thế nào là quyền lợi thiết yếu của nước Mỹ? Nước Mỹ bảo vệ quyền lợi thiết yếu gì? Ở đây, nổi cộm lên một yếu tố trường cửu trong lịch sử nước Mỹ: ý nghĩ cho rằng Hoa Kỳ không phải là một nước giống như những nước khác; Hoa Kỳ gánh một sứ mạng quốc tế. Đó là "biệt lệ" của nước Mỹ.

Biệt lệ đó mang một trong hai hình thức, tùy quan điểm: hoặc Hoa Kỳ tách biệt ra khỏi thế giới để sáng chói như ngọn hải đăng của tự do và dân chủ; hoặc Hoa Kỳ không ngần ngại lao vào chiến tranh, như người lãnh đạo, để bảo vệ cho nhân loại được dân chủ, tự do. Ngôn từ hoa bướm chăng? Đừng ai nghĩ vậy: nếu các chính quyền Mỹ liên tiếp đã vận dụng được dư luận để lao vào chiến tranh, chính là vì niềm tin đó đã ăn sâu vào đầu óc của dân tộc Mỹ.

Niềm tin đó cho phép tổng thống Kennedy không thấy một vướng mắc nào giới hạn vai trò của nước Mỹ trên thế giới: "Dù có ai muốn cho ta là tốt hay xấu, mọi quốc gia trên thế giới hãy biết rằng chúng ta sẽ trả bất cứ giá nào, chịu bất cứ gánh nặng nào, nhận bất cứ hy sinh nào, giúp bất cứ nước bạn nào, chống bất cứ kẻ thù nào, để bảo vệ sự trường tồn và thắng lợi của tự do."(3) Tự do của nhân loại nằm trong định nghĩa sứ mạng của nước Mỹ.

Thất bại ở Việt Nam đã làm lung lay niềm tin đó trong một thời gian, nhưng tin tưởng ấy, đã làm nên nước Mỹ, vẫn bền vững ở lại với nước Mỹ. Được củng cố nhờ chiến thắng chiến tranh lạnh, niềm tin đó được chính quyền Clinton vận dụng để can thiệp vũ lực vào Kosovo, dưới danh nghĩa Liên Hợp Quốc, nhưng dưới sự lãnh đạo của Mỹ.

Gánh trên vai một sứ mạng quốc tế, vậy thì nước Mỹ là một quốc gia hay là đế quốc? Câu hỏi đặt ra từ xưa, nhưng càng ngày càng được bàn cãi và trở thành thời sự nóng hổi với tổng thống Bush. Vào thời điểm đầu thế kỷ 20, tổng thống Theodore Roosevelt (1901-1909) không ngần ngại gọi đó là "chủ nghĩa đế quốc tiến bộ", trộn lẫn tham vọng thuộc địa, ý muốn cường quốc và thánh chiến dân chủ.

Nhưng, nói chung, nước Mỹ không hề quan niệm, mà cũng không hề tự cho mình là đế quốc. Trong thực tế, nước Mỹ là đế quốc trước mắt phe chống đối, ở bên trong cũng như ở bên ngoài, nhưng đây là một thứ "đế quốc" mà cấu trúc cũng như ý thức hệ chẳng phù hợp tý nào với khái niệm đế quốc cổ điển, cũng như chẳng thích hợp gì với vai trò quốc tế của nước Mỹ. Điều mà giới chống đối gọi là "đế quốc Mỹ", đại đa số ở Mỹ xem như là chủ trương của nước Mỹ nhằm bảo vệ tự do mậu dịch và tự do dân chủ mà thôi.

Dù nghĩ thế nào đi nữa, hai đặc điểm vừa nói ở trên vẫn là hai yếu tố vĩnh cửu trong lịch sử nước Mỹ, hai yếu tố đã mang lại cho nước Mỹ một tâm thức đế quốc: biệt lệ và đơn phương. Biệt lệ tạo ý thức hệ cho hành động. Đơn phương là dứt điểm. Nước Mỹ càng mạnh, hai yếu tố đó càng trở nên hách dịch.

Với tổng thống Bush, cả hai được nâng lên hàng chủ nghĩa. "Chủ nghĩa biệt lệ" cho phép ông làm chiến tranh để "thay đổi chế độ" ở một nước khác. "Chủ nghĩa đơn phương" cho phép ông bất chấp luật lệ quốc tế, tổ chức quốc tế, lợi ích quốc tế, bất chấp quan điểm của đồng minh, bất chấp đạo đức, tất cả đều phải đặt dưới lợi ích tối thượng của nước Mỹ.

Hai biến cố đã giúp ông đưa đơn phương lên mức thượng đỉnh: tan vỡ của Liên Xô, khiến nước Mỹ không còn kẻ cạnh tranh ; tấn công khủng bố ngày 11-9, khiến an ninh của nước Mỹ có thể bị đe dọa từ khắp nơi trên thế giới. Kiêu căng, ngạo mạn, ngất ngưỡng trên đầu thiên hạ, nước Mỹ của tổng thống Bush từ bỏ chức năng "lãnh đạo nhân từ" ("benevolent leadership") mơ ước để trở thành một đế quốc vũ lực ngự trị bằng sức mạnh càng ngày càng trần trụi.

Điều gì khiến Obama truyền cảm hứng đến vậy?

Chấm dứt thực trạng đó là cam kết của ông Obama. Toàn chiến lược tranh cử của ông dựa trên khẩu hiệu "thay đổi", ông cam kết thay đổi lãnh đạo trong chính sách ngoại giao. "Đổi mới lãnh đạo của nước Mỹ" là bài viết căn bản của ông trong lĩnh vực này trước khi thắng cử (4). Ông nói gì? Nói ngay: đừng tưởng ông chủ trương rút quân ra khỏi Irak là ông bồ câu!

Mở đầu bài viết là vấn đề an ninh, và ông vinh danh ba tên tuổi tổng thống của đảng Dân Chủ: Roosevelt, Truman, Kennedy. Tại sao Roosevelt? Tại vì Roosevelt xây một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất mà thế giới từng biết. Tại sao Truman? Tại vì Truman tạo dựng một kiến trúc quân sự can cường để chống lại "đe dọa" của Liên Xô. Tại sao Kennedy? Tại vì Kennedy đã dùng sức mạnh để chứng tỏ khắp nơi trên thế giới rằng Hoa Kỳ đang độ sung mãn nhất.

Vậy thì đừng tưởng rút quân ra khỏi Irak là nước Mỹ sẽ thu mình lại trong vỏ ốc! Ông Obama cảnh cáo: đe dọa ngày nay còn lớn hơn cả hôm qua, vừa đến từ khắp nơi, vừa mang nhiều hình dạng. Nước Mỹ của ông sẽ đối phó như các vị tổng thống kia đã đối phó, cương quyết và thành công. Nhưng nước Mỹ sẽ đối phó với một cung cách lãnh đạo mới: "Nước Mỹ không thể một mình đối phó với những đe dọa của thế kỷ này, và thế giới cũng không thể đối phó với những đe dọa đó mà không cần nước Mỹ". Tương quan đó làm nền tảng cho lãnh đạo mới.

Từ đó, ba kết luận. Một là đối với đồng minh: liên hệ phải dựa trên hợp tác. Hai là đối với kẻ thù: vũ lực không loại trừ thương thuyết, đối thoại. Ba là đối với thế giới: nước Mỹ và thế giới là một cộng đồng. Kết luận thứ ba này được nêu ra ngay từ hàng đầu của bài viết, như một mệnh lệnh: "an ninh chung cho nhân loại chung". Nghĩa là gì? Nghĩa là: "an ninh và hạnh phúc của mỗi công dân Mỹ lệ thuộc vào an ninh và hạnh phúc của những người sống bên ngoài biên giới của chúng ta". Và như vậy, "sứ mạng của nước Mỹ là cung cấp một lãnh dạo toàn cầu căn cứ trên sự hiểu biết rằng thế giới cùng san sẻ an ninh chung và nhân loại chung".

Tình nhân loại đó buộc nước Mỹ bảo đảm rằng "người nào sống trong sợ hãi và thiếu thốn ngày hôm nay có thể sống với phẩm cách và thuận lợi ngày mai". Sợ hãi chiến tranh? Hòa bình phải là mục đích. Sợ hãi áp bức? "Nước Mỹ phải cam kết củng cố những trụ cột của một xã hội công bình", "công dân ở khắp mọi nơi phải có thể lựa chọn người lãnh đạo trong những điều kiện không còn sợ hãi". Sợ hãi nghèo đói? "Nước Mỹ có lợi ích an ninh trực tiếp để giảm bớt đến mức tối hậu nghèo đói trên thế giới … và chia sẻ giàu có của mình với những người cần giúp đỡ".

Sợ hãi thiên tai? Nước Mỹ thở cùng với thế giới một bầu khí quyển. Tóm lại, "ta có những lý lẽ đạo đức không chối cãi được và những lý lẽ an ninh không chối cãi được để đổi mới lãnh đạo, một lãnh đạo của nước Mỹ biết tôn trọng sự bình đẳng hiển nhiên và giá trị hiển nhiên của mọi dân tộc".

Có cái gì mới trong đó? Thật sự là không có gì. Đồng minh? Trên lý thuyết và ngôn từ, có ông tổng thống nào đắc cử không hứa hẹn đổi mới quan hệ với đồng minh? Có ông nào xem đồng minh như chư hầu trong các bài diễn văn? Chính trị từ xưa đến nay đều nói một giọng. Thuycidide của cổ Hy Lạp đã nói từ 2500 năm về trước: "Ta phải sẵn sàng đối xử với đồng minh như đối xử với bạn … và hành xử lãnh đạo không phải như chủ mà như người giúp đỡ". "Như vậy, ta sẽ không thiếu đồng minh … và nhiều nước sẽ sẵn sàng kết hợp quân lực với ta. Bởi vì có nước nào, người nào không hồ hởi chia sẻ hữu nghị và liên minh khi họ thấy rằng chúng ta vừa là kẻ chính trực nhất vừa là kẻ mạnh nhất trong các

Thương thuyết, đối thoại? Ngoại giao nào lại chẳng thế? Cứ đọc Đông Chu Liệt Quốc thì biết Tô Tần uốn ba tấc lưỡi hiệu nghiệm đến đâu! Kennedy xây dựng một lực lượng nguyên tử dựa trên học thuyết "trả đũa toàn diện", nhưng chính ông đã học bài học thương thuyết với Liên Xô trong vụ hỏa tiễn Cuba, mở đầu cho chính sách hòa hoãn giữa hai kẻ thù cùng đội chung một trời.

Tình nhân loại? Ông Obama dùng từ mới, gợi cảm hơn, nhưng ý vẫn thế. Kennedy cũng đã nói không khác trong diễn văn nhậm chức: "Đối với những người cơ cực sống trong làng xóm của một nửa trái đất đang đấu tranh để bẻ gãy ràng buộc của nghèo đói tập thể, chúng ta sẽ cố gắng tận cùng để giúp họ tự giúp chính họ, ở bất kỳ giai đoạn nào cần thiết - không phải bởi vì cộng sản cũng có thể làm như thế, không phải bởi vì ta cần họ bỏ phiếu cho ta, mà bởi vì điều đó là đúng. Nếu một xã hội tự do không thể giúp số đông nghèo khổ, xã hội đó không thể cứu số ít giàu có". Chữ nghĩa đâu có kém lý tưởng!

Vậy tại sao mỗi lời nói của ông Obama lại tác động sâu xa đến thế vào trái tim của người nghe trên toàn thế giới? Tất nhiên, ông có cái lợi thế tiếp thu một gia tài bất bình và phẫn nộ mà ông Bush để lại, bất bình của đồng minh, phẫn nộ của kẻ thù, của nạn nhân chiến tranh, của môi trường bị tàn phá, của luật pháp bị vi phạm, của đạo đức bị chà đạp, của tự hào dân tộc bị thách thức, của kinh tế toàn cầu bị lâm nguy, của thất bại. Từ giã cái cũ ngang ngược, trâng tráo, xảo quyệt, ai không hân hoan ôm cái mới vào lòng? Nhưng không phải chỉ vì thế. Không phải bất cứ ai cũng có thể làm thiên hạ tin lời hứa hẹn. Không phải bất cứ ai cũng tạo được giấc mơ.

Vậy cái gì là mới nơi chữ nghĩa, ngôn từ của ông Obama? Cái gì làm người ta không nghĩ rằng "lãnh đạo mới" là sáo ngữ? Hình như ai cũng thấy câu trả lời: con người của chính ông. Ông không giống bất cứ ông tổng thống nào trong lịch sử nước Mỹ bởi vì ông mang trong dòng máu của ông, trên khuôn mặt của ông, dấu vết không phai của những nạn nhân. Nạn nhân của kỳ thị chủng tộc. Nạn nhân của phân biệt đối xử. Nạn nhân của nghèo đói ở bên kia nửa trái đất. Những nạn nhân đó thốt ra lời nói nơi miệng ông.

Một dân tộc đáng kính là dân tộc biết vượt qua chính mình để thay đổi

Nhưng câu trả lời đó chỉ đúng một nửa. Nửa kia là thế này: Phải là một dân tộc thế nào đó mới vượt qua được những thành kiến tổ tông để đưa lên địa vị lãnh đạo một người mà tiêu chuẩn lựa chọn rốt cuộc chỉ còn là tài năng. Phải là một dân tộc thế nào đó mới trả lời đồng loạt "yes we can!" (6) với một người không có màu da của tổ tiên lập quốc. Một dân tộc có khả năng vượt qua được những cản trở ghê gớm như vậy của chính mình để chính mình thay đổi là một dân tộc kỳ diệu, đáng phục, đáng kính. Với dân tộc đó, với người lãnh đạo không kém kỳ lạ đó, tin ở "lãnh đạo mới" mở ra trong nội bộ nước Mỹ là niềm tin có lý do. Từ niềm tin có lý do đó, thế giới cũng có lý do để đón nhận cam kết "lãnh đạo mới".

Vấn đề còn lại là câu hỏi: phải chăng nước Mỹ có vai trò lãnh đạo tự nhiên? Ai phong? Chỉ xét trên thực tế mà thôi, dù "lãnh đạo" của Mỹ có bị chỉ trích đến đâu đi nữa, không ai muốn nước Mỹ rút lui vào pháo đài Tây bán cầu, kể cả Trung Quốc. Hiện diện của Mỹ ở Âu châu là yếu tố căn bản của hòa bình trong vùng này. Hiện diện của Mỹ ở Á châu là yếu tố căn bản chận ngòi lửa chiến tranh, tạo quân bình lực lượng giữa các thế lực đối kháng. Không có nước Mỹ, không ai khác có thể giải quyết xung đột ở Trung Đông. Và, nói một lời cho gọn, không có nước Mỹ, Việt Nam cô thế.

Thực tế phong chức "lãnh đạo" cho nước Mỹ. Tất cả vấn đề là "lãnh đạo" như thế nào để được chấp nhận. Chẳng ai ngây thơ để tin rằng mọi việc sẽ tốt đẹp dưới chiếc đũa thần của ông Obama. Nhưng "rạng đông" mà ông hứa hẹn đáng để cho Việt Nam suy nghĩ. Đáng để cho Việt Nam đáp lại bằng một rạng đông. Tài ba của Việt Nam là phải biết thay đổi. Để nói với người, với mình, và với ông Obama: Yes we can!

GS Cao Huy Thuần

Posted by Picasa

Tường thuật hội thảo Tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông


Tường thuật hội thảo Tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông
  

Tường thuật hội thảo Tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông 


Ngày 17 tháng 3 năm 2009, tại Hà nội Học viện Ngoại giao - Chương trình nghiên cứu Biển đông tổ chức Hội thảo lần thứ Nhất: Tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông: lịch sử, địa chính trị và luật pháp quốc tế. 

Có khoảng gần 100 người tham dự, là các học giả, nhà ngoại giao, chính khách, nhà báo đến từ mọi miền đất nước. Đặc biệt, tham gia hội thảo còn có 2 học giả đến từ Mỹ. . 

Hội thảo chia thành 3 phiên:

- Phiên 1: Lịch sử các quá trình tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển tại Biển Đông (5 diễn giả).

- Phiên 2: Luật pháp quốc tế và tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông (5 diễn giả)

- Phiên 3: Biển Đông và quan hệ quốc tế tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (4 diễn giả)

Theo tôi, có một số ý kiến đáng chú ý sau: 

Ý kiến thứ 1: 

Phải coi Biển Đông là một nửa cơ ngơi của nước Việt Nam, đúng như cha ông ta từng quan niệm. 

Ý kiến thứ 2

Có vấn đề rất quan trọng thế này: Hiệp định Giơ-ne-vơ rất quan trọng (lãnh hải phía Nam do Chính quyền phía Nam quản lý, và hai chính quyền đó – VN Cộng hòa và Mặt trận – chưa bao giờ từ bỏ vấn đề HS-TS, và như vậy Công hàm Phạm Văn Đồng không có dính dáng gì trong vấn đề HS-TS. Đó là một cơ sở pháp lý rất quan trọng đối với HS-TS

Tôi đề nghị:

- Sự thực lịch sử như thế, cần được phổ biến rất rộng rãi

- Đối với các nước ASEAN, cần phải tương nhượng để các bên đều có lợi

- Đối với TQ, cần kiên quyết.

- Nhanh chóng xây dựng lực lượng dân binh tại HS-TS, giống như đội Bắc Hải, đội Hoàng Sa.

- Quốc Hội nên nhanh chóng thông qua Luật chủ quyền của HS-TS

- Triển khai các đối sách kịp thời, hiệu quả phù hợp với công ước quốc tế về luật biển trong đó có đăng ký vùng lãnh hải mở rộng...

- Vận động sự đồng thuận của xã hội (kể cả người VN ở nước ngoài) trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ...

- Đem vào trường học chương trình giảng dạy và nghiên cứu về chủ quyền tại HS-TS

- Không ký bất cứ hiệp ước nào từ bỏ quyền của Vn tại HS-TS

- Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực HS, TS năm 1938, 1939 hoặc thực dân Pháp suốt thập niên 20 đến thập niên 50 thế kỷ XX dựa vào ưu thế quân sự của mình cũng như Trung Quốc dùng vũ lực năm 1974, 1988 chỉ mang tính nhất thời...

Ý kiến thứ 3:

- TQ rất chú trọng đến thời và thế (chuẩn bị dư luận) trong vấn đề Biển Đông.

- TQ không từ bỏ một thủ đoạn nào, diễn đàn nào để khẳng định chủ quyền của mình (Lúc xung đột vũ trang thì họ cũng ko từ một thủ đoạn dã man nào).

- TQ xuyên tạc, nói xấu trong dư luận quốc tế và trong nước ..

- Chúng ta đã hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới phía bắc, phân định Vịnh Bắc Bộ. – Vấn đề làm nghề cá cũng phải gắn với vấn đề bảo vệ chủ quyền.

Ý kiến thứ 4:

- Những phát biểu đưa ra những bằng chứng pháp lý và những phân tích là rất quý báu.

- Cần đưa ra những chứng cứ và phân tích pháp lý: rất lưu ý về vấn đề bản đồ 1608.

- Phải biết tận dụng các điều kiện lịch sử, các thời cơ: Tại sao tại thời điểm hiện nay, các nước xung quanh đẩy vấn đề này rất quyết liệt

- Hội thảo quốc tế nên có, rất cần minh bạch, càng minh bạch càng tốt, càng tù mù càng bế tắc.

- Đấu tranh bằng cảm tính chưa được. Phải đấu tranh có cơ sở pháp lý, có bằng chứng. Phải sử dụng cơ chế đa phương để làm rõ vấn đề này. Cần đối thoại trực tiếp, rõ ràng. 

- Phải dựa vào các nước ASEAN

Ý kiến thứ 5:

- Từ 1909 đến nay, đúng một thế kỷ tranh chấp chủ quyền về Biển Đông. Nhưng tình hình hiện nay là ta chưa biết sử dụng kết quả nghiên cứu, chưa biết tập hợp lực lượng. Người nghiên cứu cứ thấy mình đang làm một việc mà như giấu diếm, như bất hợp pháp vậy. Trong khi đó TQ đào tạo và công bố tài liệu và rao giảng khắp thế giới. 


- Hội thảo này phải lấy lại tinh thần. Cần sự quan tâm thực sự của các cấp, trong đó có cao cấp nhất. Cần mở rộng dư luận để mọi người đều biết, đều có trách nhiệm về vấn đề chủ quyền biển.

Thư tịch và bản đồ cổ chưa từng có tài liệu nào khẳng định chủ quyền của TQ đối với HS – TS (mà TQ gọi là Tây Sa). Đến năm 1928, trong “Điều tra Tây Sa quân đảo báo cáo” thì mới là tác phẩm mở đầu về Tây Sa. Trong lịch sử TQ thì vùng lãnh thổ TQ chưa bao giờ vượt qua Hải Nam.

Ý kiến thứ 6:

- Cuộc tranh chấp ở Biển Đông không cân sức. Tính chất của tranh chấp là mang tính thực dân, ăn cướp của 1 nước lớn đối với nước nhỏ. 

- Từ nay về sau, toàn bộ các tranh chấp về Biển Đông thì người TQ và Đài Loan luôn đứng về 1 phía. Phía bên kia là phân tán.

- Điểm nút, nóng là Trường Sa (Hoàng Sa mất rồi, ko thể lấy lại được)

- TQ quyết tâm chiếm HS là tại sao (dầu khí ư?), là vị: gắn với chiến lược của Trung Quốc – khống chế Biển Đông, khống chế đường biển. Sau khi được, thì sẽ khống chế Nhật Bản rồi khống chế Mỹ, đẩy Mỹ ra khỏi vùng này, rồi ảnh hưởng đến Ấn Độ Dương, Ấn Độ.

- TQ ko đánh HS. Khi nào đánh? Khi:1. Nội bộ TQ có vấn đề, 2. Khi nắm chắc Lào, 3. Khi Đài Loan yên ổn. Khi ấy TQ sẽ vu cáo, dựng chuyện.

- 17.2.2009 TQ có 700 bài báo về cuộc chiến, gần như chung một tiêu đề: Cuộc phản công chống VN xâm lược. 92 % người TQ ko hiểu về cuộc chiến 2/79

- Dân tộc này sống còn hay suy thịnh là do quan hệ với TQ. Vì vậy, vấn đề HS – TS và Biển Đông phải được quảng bá, phải được nghiên cứu. Phải in sách phát không cho nhân dân, phát thanh truyền hình.

- Khi cần thiết, phải cho hàng triệu người dân xuống đường biểu tình (ví dụ như khi nghe Tàu thành lập Tam Sa chẳng hạn). 

Ý kiến thứ 7:

- Tôi chỉ nói 1 điều: Lịch sử TQ là lịch sử bành trướng về đất đai (trên bộ, trên biển). Bài Binh xa hành của Đỗ Phủ: máu chảy biên giới thành sông, mà ý của vua lấn đất vẫn chưa thôi. 

- Lấn đất xong hết rồi. Nay, dứt khoát là Biển. Ý chí mãnh liệt: Biển Đông là ao nhà ta. 

- TQ là bậc thầy của lợi dụng mâu thuẫn và chia rẽ.

- TQ đương cho chúng ta uống thuốc an thần. TQ đủ gan đủ kiên nhẫn để truyền kiếp muốn thực hiện ý chí.

- Phải công khai hóa vấn đề.

- Không có đồng chí đồng chuột gì với TQ đâu!

- Nhìn Biển Đông là nhìn tổng thể. TQ muốn khuất phục VN, biến VN thành tay sai.

Ý kiến thứ 8:

- Nghiên cứu: Đặt Vấn đề Biển Đông trong quan hệ quốc tế, tính đến khả năng Mỹ - Trung mặc cả với nhau, thỏa thuận.

- Nghiên cứu chứng cứ lịch sử, pháp lý.

- Nghiên cứu các động thái ở các bên tại Biển Đông: Mỹ - Trung

- Nhanh chóng xây dựng chiến lược biển (đồng bộ, hiện nay mới chỉ có chiến lược kinh tế biển)

- Cần có sự đoàn kết nội bộ, cả ở cấp cao, nhất là cấp cao

- Ngoại giao phải đi trước 1 bước

- Đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ chuyên nghiên cứu về Biển Đông.

Hội thảo đã diễn ra trong một ngày (kết thúc lúc 17h30) với một tinh thần khẩn trương. Các trao đổi bên lề và các thảo luận tại hội trường thực sự sôi nổi, chất lượng và khoa học. Đây là cuộc hội ngộ của những tấm lòng yêu nước nhiệt thành và quyết tâm dấn thân vào mọi nỗ lực giữ bằng được Biển Đông - "một nửa cơ ngơi" nước Việt Nam. 

Các phát biểu của các học giả mong muốn có một chương trình hành động quốc gia về các vấn đề của Biển Đông, trong đó trọng tâm là Hoàng Sa và Trường Sa. 


Lưu ý: 

* Những ghi chép trên không phải là tất cả toàn bộ những gì diễn ra trong một ngày hội thảo.

* Những ý kiến được ghi chép và đưa lên đây là theo góc nhìn hết sức chủ quan và phiến diện của tôi. 

* Một số ý kiến quan trọng khác đang trong quá trình thảo luận, chúng tôi không đưa lên đây.

cuoc song


BIỆN HỘ CHO XUÂN TÓC ĐỎ

 

Trong thực tế giao thiệp ,cũng như khi tiếp xúc với các tác phẩm văn chương , người ta rất dễ quan liêu , tức là mặc sức cho những ấn tượng ban đầu thao túng , từ đó , tạo nên những huyền thoại , kể cả huyền thoại về những con người đợc xem là tốt , lẫn những con người bị gán cho đủ mọi thói xấu . Và việc lật lại các huyền thoại bao giờ cũng mang trong nó tính chất một cuộc thể nghiệm , cần được trao đổi nghiêm chỉnh .

 

 Sự trùng hợp kỳ lạ 

 Trong chương mở đầu Số đỏ, Vũ Trọng Phụng có đoạn tả lại cái cảnh Xuân đi xem bói, và khi ông thày bảo khai ngày sinh tháng đẻ, thì nhân vật này -- tạm gọi là nó như Vũ Trọng Phụng thường gọi -- đáp lại gọn lỏn “ Hai mươi lăm tuổi đấy bố ạ. Tháng mười, ngày rằm, giờ gà lên chuồng “. Trong cuộc hội thảo vào dịp kỷ niệm 80 năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng (10—2002), nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải có một tham luận (1) phát hiện ra sự liên hệ thú vị: những con số nói trên liên quan đến người đã tác thành ra nhân vật chính của Số đỏ. Tức ngày sinh tháng đẻ của Vũ Trọng Phụng cũng là ngày sinh tháng đẻ của Xuân. Cho đến ngoại hình của tác giả cũng có những nét của nhân vật. Không cần là người thạo tử vi, chỉ theo lẽ thường mà suy, người ta đã có thể nghĩ: giữa nhân vật chính của Số đỏ và tác giả như vậy là có một mối duyên nợ kỳ lạ. Nhân vật không còn là một thứ chúng sinh bình thường, một thứ công cụ để ông trình bày tấn trò đời. Mà phải nói cái anh chàng mà ông thác sinh ra đó có một mối quan hệ riêng với ông, nó là một phần con người cuả ông. Đây là loại nhân vật có lô - gích nội tại, có quy luật phát triển riêng; sau khi đã đẻ ra nó, nhà văn không thể đứng từ một khoảng cách rất xa để tuỳ tiện điều khiển, mà phải nhập thân vào nó, coi nó như người có thật, tìm hiểu, lắng nghe, đối thoại với nó. Đến lượt mình, người đọc cũng phải có cách nghĩ khác về Xuân. Lâu nay khi bàn về một con người, hoặc nhân vật của một tác phẩm văn học, ở ta có một thói quen là cố tìm cách sắp xếp xem nhân vật hay con người đó thuộc vào dạng tích cực hay tiêu cực, được tác giả đưa biểu dương hay phê phán. Với Xuân, người ta có thêm cơ hội để gắng đi tới một hệ thống phân loại cận nhân tình hơn. Việc tìm ra và xác định rõ cái chất người ở Xuân đòi hỏi một cái nhìn cởi mở, vượt qua mọi thành kiến mà hàng ngày ta không để ý. 

 

 Chưa hẳn đã là lưu manh thứ thiệt 

 Cái danh hiệu “quý hoá” mà nhiều người nghĩ tới và không ngần ngại gán cho Xuân tóc đỏ gói gọn lại trong hai tiếng lưu manh. Theo cách hiểu thông thường, nhân vật lưu manh thường là loại người sống bên lề xã hội; lưu manh đồng nghĩa với những gì xấu xa: hư hỏng, lừa bịp, dối trá. Như vậy, Xuân bị gán cho những tội vạ nặng nề nhất. Thậm chí có thể nói, trong tâm trí của nhiều người, ngay đến Chí Phèo suốt ngày say khướt và mang mọi người ra chửi, sẵn sàng gây vạ cho cả làng Vũ Đại, xem ra còn có gì đó dễ chấp nhận hơn là Xuân tóc đỏ. Thành kiến này, cố nhiên, có cái lý riêng của nó. Chính tác giả đã sớm tóm tắt cho người đọc biết trước mặt họ là một con người hoàn toàn vô giáo dục ( câu đầy đủ trong nguyên văn như sau: “ Cảnh ngộ tạo nó nên một đứa hoàn toàn vô giáo dục, tuy nó tinh quái lắm thạo đời lắm “ ). Đúng là trong suốt cuốn truyện, Xuân có làm vài việc dễ gây phản cảm. Nhưng Xuân không hoàn toàn hư hỏng như người ta thường nhầm và khái quát một cách vội vã. Trong cách ăn nói và trước tiên là cách nghĩ của Xuân không có dấu hiệu của sự hèn mọn, đểu giả (2). Thứ nữa, một thói xấu thuộc loại khó chấp nhận nhất của lưu manh là lười biếng, không chịu làm việc thì Xuân không mắc. Khi tham gia vào việc phục vụ các bà các cô ở tiệm Âu hoá, cũng như khi trở thành nhân vật của giới thể thao quốc gia, nó chỉ làm những việc mà nó thông thạo và có năng khiếu. (3) Rồi khi ngẫu nhiên tham gia vào việc chữa bệnh cho ông già tám mươi tuổi thân sinh của cụ cố Hồng, nó đâu có tự đứng ra khoác lác, chẳng qua bị giới thiệu là sinh viên trường thuốc với ông đốc thì nhận tràn đi, mà không cải chính, thế thôi; cũng như cái việc chữa cho ông cụ bằng thuốc thánh xin ở đền Bia, thì đó là do thói quen mà làm, chứ không thể nói Xuân cố tình bịp bợm. 

 Chung quanh hai chữ lưu manh, cùng lúc tồn tại những cấp độ ý nghĩa khác nhau. Đúng là nói tới lưu manh, người ta nghĩ ngay tới những hành động cụ thể. Nhưng trong sự giao tiếp hàng ngày, lưu manh còn được dùng với nghĩa sâu sắc hơn. Đó là tinh thần khinh rẻ đồng loại, bỏ qua những chuẩn mực thông thường, bất cần, nổi loạn. Đứng đằng sau các hành động lưu manh thường là một triết lý có màu sắc hư vô: Chúa đã chết, chẳng còn có gì là lương tâm thiêng liêng nữa, và cái gì con người ta cũng có quyền làm. Bởi vậy, không chỉ thấy ở dân vô học mà trong nhiều trường hợp, tinh thần bất chấp đạo lý toát ra cả trong hành động cũng như tư tưởng của những người có bằng cấp cẩn thận, và hai tiếng lưu manh hoàn toàn thích hợp để gọi họ. Như trong Hoàng Lê nhất thống chí, một nhân vật là huyện Trang trong cảnh hỗn loạn, công khai làm chuyện động trời là bắt vua lấy thưởng, nhân vật này đã tự giải thích hành động của mình bằng câu “ triết lý” xanh rờn: “ Sợ thày không bằng sợ giặc, yêu chúa không bằng yêu thân “. Sự bất cần ở đây đã lên đến mức cùng cực, và phải gọi đó là một triết lý lưu manh. So sánh với các nhân vật loại “ có học “ như vậy, thì Xuân của chúng ta chưa đến nỗi. Nó không ích kỷ và cá nhân chủ nghĩa tới mức đi ngược đạo lý thông thường. Đứng trước cuộc đời, nó còn biết sợ. Còn đây, một sự so sánh khác: trong kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam, có hẳn một chùm truyện viết riêng về hai nhân vật nổi tiếng là Ba Giai Tú Xuất. Vốn họ cũng là người có được học hành đàng hoàng, thi cử đâu ra đấy, song sống trong một hoàn cảnh ngang trái, cụ thể là hoàn cảnh một xã hội nhố nhăng hỗn loạn ( thuở giao thời khi Việt Nam vừa mới trở thành thuộc địa của người Pháp ), niềm tin của một trí thức ở Ba Giai cũng như Tú Xuất tan nát hoàn toàn. Họ lao ra đường làm bậy. Gặp ai họ cũng tìm cách trêu chọc thậm chí hạ nhục. Nói như cách nói của những năm đầu thế kỷ XXI này, phải gọi Ba Giai Tú Xuất làm nên một cặp bài trùng, chuyên nghề khủng bố lẻ, cười cợt ngay trên nỗi đau khổ của người khác. Nhân vật ở đây thực đã rơi xuống vũng bùn của thứ chủ nghĩa hư vô ở dạng thấp hèn, trong cơn tuyệt vọng tự cho phép mình tha hồ phá phách. Xuân tóc đỏ xa lạ với những cách cư xử kiểu ấy. Nó không bao giờ làm những việc đáng để gọi là bất nhân bất nghĩa. Ngược lại, ở nó chỉ có một ám ảnh là làm sao ra khỏi tình trạng khốn quẫn và tìm cho mình “ một chỗ đứng dưới ánh mặt trời “. Nên biết thêm rằng bản chất lưu manh không chỉ thể hiện ở tình trạng bần cùng hoá về đường vật chất, mà còn bao hàm thái độ khinh miệt đối với trí tuệ và các giá trị tinh thần, kể cả kiến thức và sự uyên bác. Sự khinh miệt này làm cho các nhân vật lưu manh trở nên đối lập hoàn toàn, tức một thứ khắc tinh của những người trí thức chân chính; sự thắng thế của tư tưởng lưu manh góp phần vào việc huỷ diệt niềm tin nơi các trí thức ấy, làm cho họ không còn tin ở mình, ngấm ngầm khuyến khích họ biến chất, tức cũng chung một triết lý sống với những kẻ vô học càn rỡ, láo lếu. Nhìn lại, thấy những “ ưu điểm” loại này cũng không có chỗ đứng trong tâm trí Xuân. Liều lắm, nó chỉ suồng sã vỗ vai đùa bỡn với đốc tờ Ngôn hoặc Josef Thiết, nhưng dừng lại ở đó, và trong bụng vẫn dành cho họ sự kính trọng, khi cần thì thành thực nhờ họ giúp đỡ. 

 

Một người lập nghiệp 

 Các nhân vật được xếp vào loại tích cực ( với nghĩa đáng khen đáng noi theo ) trong văn học cổ cũng như văn học hiện đại ở Việt Nam thời kỳ 1932-45 thường là những người yếu đuối, bị chèn ép. Như trường hợp chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Trong sự cảm thụ thông thường, nhân vật này thường được xem như có nhiều phẩm chất tích cực, đáng biểu dương ca ngợi. Nhưng hãy thử đọc lại tác phẩm: Nét nổi bật ở chị Dậu là thương chồng thương con. Nghĩa là người đàn bà nông dân này có một đời sống tình cảm thuần phác và đôn hậu. Song, khi chỉ vào đời với những phẩm chất ấy, người ta rất dễ chuốc lấy bất hạnh. Về nhiều phương diện, trong chị Dậu thấy lặp lại cái phần thiếu xót nằm sâu trong tính cách cô Kiều thân thiết của tất cả chúng ta: Họ đều là những người không có được sự hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh xã hội nói chung, về tình thế của mình nói riêng, do đó trên đường đời nhiều phen rơi vào bị động bất lực. Trong Truyện Kiều, khi gia đình khó khăn thì Kiều chỉ biết có cách khóc lóc rồi sẵn sàng bán mình cứu cha, dấn thân vào cuộc sống phong trần; cũng như sau này, qua ít ngày theo Từ Hải ngang dọc, Kiều khuyên Từ Hải ra hàng. Còn trong Tắt đèn, hành động khá nhất của chị Dậu là dám túm lấy cổ cai lệ đến thu thuế, ấn dúi hắn ra cửa, tiếp đó túm tóc lẳng cho tên người nhà lý trưởng ngã nhào ra thềm, rồi bị giải lên phủ, cuối cùng phải đi làm vú lấy tiền trả nợ. Nhìn lại các nhân vật được nhiều cảm tình của bạn đọc như Mai trong Nửa chừng xuân của Khái Hưng, cô hàng xén hoặc mẹ Lê trong các truyện ngắn của Thạch Lam, chúng ta cũng thấy những nét tương tự. Dù hiện ra với nhiều tính tốt, như mau mắn, tử tế, nhân hậu, song thật khó lòng nói rằng đó là những nhân cách trưởng thành và đạt tới một triết lý sống chắc chắn. Trong khi khâm phục giá trị đạo đức của họ, đồng thời phải nhận rằng cái tư cách nạn nhân có làm cho họ bé nhỏ đi ít nhiều. 

 Một loại nhân vật khác cũng gần với Xuân là những Tám Bính, Bảy Hựu … trong các tác phẩm của Nguyên Hồng. Ở đây, các vai lưu manh được miêu tả với đủ chuyện kinh thiên động địa. Chủ ý của Nguyên Hồng là nhấn mạnh rằng ở những con người tưởng như đã tha hoá ấy, cái phần lương tri tốt đẹp vẫn còn. Nhưng cũng chỉ có thế. Nhân vật của Nguyên Hồng chưa ra khỏi thế giới nhỏ hẹp chật chội của lớp người bần cùng. Còn Xuân của Vũ Trọng Phụng thì được ném vào một trường hoạt động mới, để gia nhập vào cái thế giới rộng lớn mà người ta tưởng như chẳng liên quan gì đến nó. Biết mình xuất thân hèn hạ, Xuân không mặc cảm, mà vẫn hồn nhiên tham gia vào những việc có vẻ như rất trọng đại. Và nhất là vẫn giữ được một sự chủ động hiếm có. Đằng sau câu chuyện mê tín ( vốn là một thói xấu dễ tha thứ ), việc Xuân đi bói hé ra cho thấy một ám ảnh ghê gớm trong lòng nhân vật: Nó muốn có một ngày mai khác với hôm nay. Và nó tin rằng nếu biết cố gắng, thì cái hậu vận tươi sáng đó trước sau sẽ đến. Đây là một nét tâm lý chỉ thấy ở những con người có lòng tự tin mạnh mẽ. Bàn về Chí Phèo như một siêu mẫu, nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào cho rằng qua anh Chí, Nam Cao đã thâu tóm được một khát vọng nóng bỏng của con người trong mọi thời đại, đó là khát vọng hoàn lương, khát vọng đổi đời (4). Trở lại với Số đỏ, có thể thấy cả hai khát vọng đó cũng nằm sâu mãi trong tâm trí Xuân và dần dần được thực hiện. Trong chương XVI, khi dẫn Xuân đi khai tên ở Tổng cục thể thao ( ngày nay gọi là đi đăng ký dự thi ), Văn Minh đã giúp chúng ta khái quát một chân dung. Chẳng những nhác trông thấy Xuân, Văn Minh đã thầm nghĩ ngay rằng “ ừ cái mặt thằng này thế mà cũng đỡ ma cà bông rồi đây”---, ở đoạn dưới, ông chủ cửa hàng Âu hoá còn nói thẳng với Xuân: “ Từ khi anh về giúp việc cho chúng tôi, là địa vị anh cứ dần dần thay đổi, cho đến bây giờ thì anh đã nghiễm nhiên là một người khác “. Sự đổi đời không còn là cái ao ước xa vời. Mà với Xuân nó đã trở thành hiện thực ! Có dễ trong văn học Việt Nam từ 1945 về trước, ít có nhân vật nào thành công một cách chính đáng như vậy. Để đạt mục đích, đúng là Xuân có gặp may, nhưng sự may mắn đó chỉ đến với những con người có sự chuẩn bị đón nhận. Sự đổi đời ở đây là một kết quả hợp lý, nó là phần thưởng sau bao kiên trì nỗ lực. Cái ý thức “mình cũng có thể như mọi người, thậm chí làm hơn mọi người “ đã ăn sâu vào Xuân để rồi cộng với những nỗ lực thích đáng, tự nó làm nên những cú vượt thoát ngoạn mục. 

 

Một bước phát triển

trong đời sống tinh thần 

 Để có thể thành công trên đường lập nghiệp, một cá nhân phải có sự trưởng thành trong trình độ làm người. Trên nhiều phương diện, Xuân của Vũ Trọng Phụng đã đáp ứng nhu cầu đó. Nghe ra có vẻ hơi kỳ, nhưng vẫn có thể nói Xuân là một tính cách chắc chắn, ổn định, ít nhất là trên mấy khía cạnh sau đây: 

 1/ Xuân rất nhạy cảm, nên thường nhận thức rõ tình cảnh mà mình rơi vào và có sự đáp ứng khá hợp lý. Vừa sống, nó vừa nhìn vào những người chung quanh lo học hỏi và tìm cách đáp ứng cái vai trò mà mọi người trông chờ ở mình. Vả chăng, đó không phải là cách thích ứng hèn hạ, thích ứng với bất cứ giá nào đến nỗi tha hoá, tức đánh mất mình. Với cái vẻ “ thạo đời và tinh quái sẵn có “, dù phải làm gì thì Xuân vẫn là Xuân, nếu như không nói là dần dà nâng được địa vị của mình lên một cách đàng hoàng. Đọc những câu như “ Xuân trầm tư mặc tưởng “, hoặc “ tự nhiên nó quá đứng đắn, rất có ý tứ “, mới đầu nhiều người có thể bỏ qua, tưởng chỉ là một câu đùa giỡn của Vũ Trọng Phụng, song những nét chấm phá đó hoàn toàn nhất trí với tính cách Xuân nói chung. Thành thử có thể nói nếu có đùa thì đó là một trò đùa rất nghiêm chỉnh. Và cả cuốn Số đỏ được viết theo kiểu “ đùa rất nghiêm chỉnh “ ấy. 

 2/ Xuân sống tự trọng. Nhiều lần ta bắt gặp ở nó “cảm giác hổ thẹn “. Hứa với ai điều gì, là nó lo thực hiện. Ai làm ơn cho nó, nó đều nhớ. Có lỗi với ai ( kể cả cái lỗi lớn là chiều ý bà Phó Đoan khi về ở nhà bà ), nó áy náy không yên và tìm đủ cách chuộc lỗi. Vậy là có một chút gì đó thuộc về lương tâm vẫn còn sống mãi trong lòng Xuân. Chính tác giả cũng đã mấy lần viết những câu tạt ngang đại loại “Vốn là người cũng có lương tâm nó nhận thấy rằng …” hoặc “ Nó hiểu ngay ra nghĩa chữ tín ở đời “. Với niềm tự tin sẵn có, Xuân sẵn sàng đối mặt với sự thật: Thấy có người nói xấu mình, nó đi hỏi bằng được. Tức là nó muốn tìm tới một sự sòng phẳng, một điều mà người ta hay nghĩ rằng những ai xuất thân hèn hạ và thiếu tự tin không bao giờ có. 

 3/ Ở Xuân sớm hình thành một thói quen, đúng hơn một định hướng sống khá chính xác: Nó không nhẫn nhục cam chịu sống với cái vị trí mà người ta đẩy nó vào hoặc khép mình theo những chuẩn mực mà xã hội áp đặt cho loại người lưu manh. Những nền nếp cũ không hề có mặt để trói buộc nó. Một cách chủ động, nó dám sống khác với thói thường, miễn thấy đó là phải. Nói cho to tát, tức nó muốn sống theo đúng tầm vóc của con người nói chung. Trong việc này, cái lý lịch “trên không chằng dưới không rễ “ của nhân vật trở nên một điều kiện thuận lợi. Nó dễ dàng tìm cho mình một sự tự do với đúng nghĩa của từ này. Trên đường lập nghiệp, nó không sớm cầu an và dừng lại giữa chừng, mà quyết đoạt được tới hiệu quả cao nhất có thể có. Việc Xuân vươn ra ở trình độ quốc gia ( dù là trên lĩnh vực thể thao ), cho thấy về căn bản, định hướng sống của nó là đúng. 

 4/ Một điều kiện nữa giúp Xuân thành công mà cũng là dấu hiệu cho thấy nó đã đạt đến trình độ khá cao trong sự phát triển lý tính, ấy là việc Xuân rất hiểu mình cũng như vị trí của mình trong con mắt mọi người. Có lần tả Xuân cáu, tác giả bảo rằng “ lúc ấy Xuân quên hẳn mình. Nó đã bất tự tri. ”. Một lời chê nhỏ như vậy thực ra là một lời khen lớn: Tức là hàng ngày Xuân vẫn tự tri, cái sự tự tri ( tự biết chính mình ) ấy đã thành một bản tính tự nhiên, chỉ thỉnh thoảng nó mới quên. Hãy đọc lại đoạn Văn Minh báo với Xuân cái việc định gả em gái là Tuyết cho nó. Những tưởng đang trong cảnh long đong kiếm sống, vớ được vợ giàu chẳng khác chết đuối vớ được cọc, Xuân phải túm ngay lấy cơ hội. Đằng này không, Xuân lập tức trả lời là mình không dám nhận. Và trước mặt ông anh vợ tương lai, nó nói thẳng rằng mình “không cha không mẹ, lêu lổng từ bé, nhặt ban quần, bán phá sa, đã làm nhiều nghề hèn “. Nói như các cụ ngày xưa, vậy là Xuân thuộc loại tri kỷ tri bỉ, biết mình biết người; hoặc theo thuật ngữ của tâm lý học, ở nó có một sự tự ý thức khá đầy đủ. Nó không quên quá khứ, càng không mắc bệnh hoang tưởng. Trong cái năng lực tự ý thức ấy, có mặt cả sự tự tin, tỉnh táo, lẫn sự lương thiện, bấy nhiêu lý do cùng lúc khiến cho người đọc buộc phải nhận rằng mặc dầu thuộc loại ở mãi dưới đáy xã hội nhưng Xuân chưa bị làm hỏng. Chẳng những thế, còn có thể nói nó đã hấp thụ được một trong những cách nghĩ mới mẻ mà xã hội hiện đại vừa mang tới cho con người đương thời. Sự tỉnh táo của Xuân lúc này có thể sánh ngang với Chí Phèo khi Chí cãi lại Bá Kiến “ Không được ! Ai cho tao lương thiện …Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không ! “ mà nhiều người vẫn ca ngợi. 

 

 Con người hiện đại, anh là ai ?

 Sau khi kể lại tỉ mỉ việc Xuân gia nhập vào xã hội của những bà phó Đoan, Văn Minh, đến chương XIV, Vũ Trọng Phụng để hẳn mấy trang nói riêng về việc Xuân tóc đỏ được mọi người đánh giá ra sao. Điều này không chỉ là nhu cầu của người trong cuộc mà còn là của chính độc giả theo dõi câu chuyện. Thế nhưng rút cuộc Xuân là người thế nào ? Chịu, những người thường xuyên tiếp xúc với Xuân mỗi người một ý, không ai xác định được cho chính xác. Người yêu người ghét, người này thấy Xuân vô tích sự, người khác lại thấy Xuân được việc. “Người chê Xuân vô học, người lại quả quyết rằng về học thức của Xuân thì đã mấy ai bằng “. . Và tác giả chốt lại bằng một câu buông lửng: “ Sau cùng thì không còn một ai biết rõ cái giá trị của Xuân là đáng khinh trọng thế nào nữa “. Việc một nhân vật trở nên một cái gì người ta không kết luận được như thế này không chỉ khiến cho câu chuyện đọc thêm hấp dẫn, mà suy cho cùng, nó càng chứng tỏ nhân vật có phần vượt khỏi tầm tay của tác giả như phần trên chúng tôi đã lưu ý. Hơn nữa đây cũng chính là một đặc điểm người ta thường thấy ở loại nhân vật hiện đại trong văn học. Những ai có dịp tìm hiểu văn học phương Tây thế kỷ XX hẳn biết nhân vật trong các tiểu thuyết thời nay có sự phát triển khá lạ lùng. Nói chung, không bao giờ họ nằm yên trong những cái khung xã hội mà người đọc quen hình dung. Họ vào đời như dấn thân vào những cuộc phiêu lưu. Dường như mỗi người bị đẩy đi giữa một đám đông hỗn độn và toàn bộ nỗ lực của họ là tìm cách tự khẳng định mình trong sự hỗn độn đó. Có khi họ thấy đời là một cuộc chơi và quá trình chơi thú vị hơn kết quả. Lại có khi họ bị ám ảnh bởi ý nghĩ điều gì cũng có thể xảy ra đối với mình, cả điều xấu nhất lẫn điều tốt nhất. Khi giả thiết rằng thế giới này là điên rồ và mình cũng chẳng thoát khỏi cơn điên ấy, con người trong tiểu thuyết hiện đại không còn bị ám ảnh quá đáng bởi lương tâm và các vấn đề đạo đức. Đường đời của nhiều nhân vật lúc này phần lớn phụ thuộc vào việc họ tự chế ngự những mặc cảm cuối cùng còn sót lại trong người, để hiện thực hoá cho được những tiềm năng sẵn có. Bảo rằng họ thành công cũng được, thất bại cũng được. 

 Không cần khiên cưỡng gì lắm, cũng có thể nói rằng người ta dễ dàng tìm thấy một số đặc điểm trên đây trong tính cách và số phận Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng, và chắc chắn là rồi đây, khi cần nghiên cứu kỹ càng đầy đủ hơn vấn đề hiện đại hoá của con người Việt Nam thế kỷ XX, Xuân còn được nhắc tới như một dẫn chứng độc đáo. 

 Sở dĩ văn học thế kỷ XX đưa ra loại nhân vật nói trên, bởi ngay trong đời sống, những con người loại này đã hình thành, và chính sự đổi khác của đời sống buộc tiểu thuyết phải khác trước thì mới biểu hiện được cái đời sống đã thay đổi đó. “ Nay là thời mà lối viết trữ tình hoặc để cho dốc bầu tâm sự không còn được thịnh hành, và một khi bị mang áp đặt, thì cả những tình cảm tốt cũng dễ bị dị ứng”. “ Những hài kịch phi lý, đó là cách tốt nhất để viết về cái thế giới kỳ cục mà người ta đang sống”. “ Tính hiện đại mang trong nó sự giải phóng cá nhân, sự thế tục hoá toàn bộ những tiêu chuẩn giá trị, sự phân hoá không thể kết hợp của chân thiện mỹ “ --- những nhận định loại đó rất dễ gặp trong các tài liệu nghiên cứu viết về phương Tây hiện đại. 

 Tương tự như vậy, có thể nói sở dĩ Xuân tóc đỏ có thể có mặt và tự do đi về trong kiệt tác của Vũ Trọng Phụng, ấy là bởi chính sự phát triển của hoàn cảnh đã mở ra những tiền đề cho loại nhân vật này phát triển. Từ chỗ là một thực thể cổ lỗ ngưng đọng, xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã trở thành một xã hội hiện đại một cách nhanh chóng đến mức tự nó cũng kinh ngạc về sự biến chuyển của chính mình. Trong lúc chưa thể tự nhận diện một cách chính xác, người ta đành tạm bằng lòng với những giả thiết chung chung, kể cả những nhận thức tưởng là gần đúng mà thực ra là lầm lẫn. Ở chương VII của Số đỏ, tác giả kể khi cụ tổ tám mươi ốm, có một người con ( cũng đã già ) gọi là ông Hai ở nhà quê ra chơi, và Vũ Trọng Phụng không quên nói rằng trong con mắt của ông Hai mọi chuyện lúc bấy giờ thật là kỳ quặc. Quả thật, hai chữ kỳ quặc đã diễn tả chính xác cái ấn tượng mà nhiều người bình thường có được từ cuộc sống và con người ở Hà thành khoảng những năm ba mươi của thế kỷ trước. Bởi suy cho cùng cái nhìn của ông Hai nói ở đây có liên quan tới cái nhìn của những người nông thôn, là nơi mà công cuộc hiện đại hoá chỉ tác động tới một cách hời hợt. Điều quan trọng hơn là cho đến những năm cuối của thế kỷ XX, đầu XXI, cái nhìn loại này vẫn được nhiều người vô tình lặp lại. Thành thử, những thành kiến kéo dài với một nhân vật như Xuân tóc đỏ từ trước đến nay kể ra cũng là tự nhiên, và chỉ có cơ thay đổi khi tiến trình hiện đại hoá mà Xuân đã sống, đã vùng vẫy để tự khẳng định, được chúng ta nghĩ lại cũng như đánh giá lại. /. 

 

----------------

Chú thích 

(1) Một phần bài viết này đã được in trong Bản sắc hiện đại trong các tác phẩm Vũ Trọng Phụng NXB Văn học 2003. 

(2) Ngay từ 1990, Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết Trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ đã sớm nhận xét “ Xuân tóc đỏ thực sự không chơi đểu với ai cả, chẳng qua những người chung quanh nhầm hoặc lợi dụng y “. Bài viết in trong Vũ Trọng Phụng, tài năng và sự thật, NXB Văn học 1998, tr 110. 

(3) Khi sửa chữa lại bài trên và cho nó một cái tên khác là Dị ứng với cái rởm một phương diện của trào phúng Vũ Trọng Phụng ( in trong Bản sắc hiện đại …, sđd, tr 91 ) Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: “ Xuân là sinh viên trường thuốc rởm là”thượng lưu trí thức “ rởm, là thi sĩ rởm … nhưng năng lực đánh quần vợt của Xuân là tài năng thực, hơn nữa một tài năng xuất chúng “ 

(4) Khả năng tái sinh của Chí Phèo, bài viết này có in lại trong Nam Cao, con người và tác phẩm, NXB Hội nhà văn, 2000, tr 283. 

 

© Copyright Vương Trí Nhàn