Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 14 tháng 9, 2010

Tác hại của giáo dục cưỡng bức




Alo hỏi thăm tình hình đứa cháu mới vào đại học. Chỗ ở cho sinh viên bây giờ có vẻ nan giải. KTX không đủ chỗ mà kiếm được chỗ thuê tử tế an toàn cũng khó. Đoán chắc cháu cũng ăn đủ áp lực từ bố mẹ rồi nên mình chỉ khuyên cháu hãy tìm cách học thêm ngoài trường học: học ăn, học nói, học mặc, học đi đứng, học giao tiếp và học đối phó với thất bại. Chia sẻ với cháu rằng chỉ kiến thức ở trường sẽ không đủ quyết định thành công. Hãy cố gắng học hành nghiêm túc nhưng nếu kết quả có không được như mong muốn thì cũng đừng vội nản; tránh đâm đầu vào học thêm liên miên như những tháng ngày phổ thông; và nếu có yêu đương em nào mà cần tâm sự chia sẻ gì thì cũng cho cậu biết.

Mình từng băn khoăn về hệ thống trường lớp của ta: trường học hay nhà tù? Có lẽ bảo chúng là nhà tù cũng không ngoa. Hình dung lại thì thấy từ năm 6 đến 18 tuổi là lúc mình hầu như không có chính kiến, đến trường và học theo một mớ giáo trình đã được định sẵn. Cả XH dường như ngầm quy định lứa tuổi này là đi học và vâng lời. Theo định nghĩa của từ liberty (tự do) thì rõ ràng mình đã bị mất rất nhiều liberty mà trên thực tế đây là quyền cơ bản của con người không kể tuổi tác – không ai bị tước mất tự do trừ khi bị tòa kết tội.

Nhân đây, mình muốn đưa ra vài tác hại của hệ thống giáo dục cưỡng bức, và để ủng hộ cho quan điểm tự giáo dục (self-education). Nếu mình có con, chắc chắn mình sẽ để chúng self-educate và sẽ không coi trường lớp là điều quan trọng với tương lai của chúng.

1. Từ chối quyền tự do của trẻ em và vị thành niên chỉ vì tuổi của các em (tuổi trẻ con). Nếu suy nghĩ trên tinh thần dân chủ (democratic thinking) thì cái này rất sai nhé. Chúng ta đúng ra không có quyền bắt tất cả trẻ em phải đến trường và học theo một mớ giáo trình định sẵn.

2. Góp phần nuôi dưỡng sự xấu hổ lẫn tự cao. Trẻ con bị làm cho xấu hổ và mất thể diện nếu chúng có kết quả học tập kém. Nỗi xấu hổ khiến chúng sợ học và bỏ học, phát triển những hành vi nguy hiểm như tính hung hăng, bất mãn, đánh nhau, sử dụng ma túy, thậm chí là tự tử. Ở thái cực kia – những bạn học hành giỏi giang thì được khen thưởng. Nhưng được khen thưởng nhiều quá sẽ khiến các bạn này trở thành cao ngạo và coi thường những bạn có kết quả học tập kém hơn mình. Cái này cũng gây ra tác động rất tiêu cực đến hình thành nhân cách của trẻ. (Mà chưa thấy cái kiểu cạnh tranh ở đâu dã man như ở ta với kết quả thi cử được công khai ở mọi nơi, thậm chí chỉ cần đánh cái tên vào internet là có thể lôi ra điểm thi).

3. Cản trở sự hợp tác. Chúng ta đều là những sinh vật xã hội (social species). Một cách tự nhiên nhất thì những đứa trẻ sẽ hợp tác, tìm cách giúp đỡ nhau, cùng đi lên và cùng tồn tại. Nhưng hệ thống giáo dục cạnh tranh điểm chác như của ta sẽ khiến các em không muốn hợp tác. Thậm chí chúng còn muốn bạn bè kém hơn mình để có cợ hội được khen thưởng. Cái này tạo nên những con người thành công nhưng độc ác (ruthless achievers).

4. Ngăn cản quá trình hình thành tính trách nhiệm và khả năng tự định hướng (self- direction). Theo các nghiên cứu thì trẻ em được tiền định (predisposed) trong việc chịu trách nhiệm với giáo dục của bản thân chúng. Chúng tự khám phá ra những cách thức giúp chúng hiểu về thế giới xung quanh, socially and physically. Bằng việc nhét trẻ vào trường học và chiếm hết thời gian của chúng bằng những bài tập về nhà, chúng ta đồng thời tước đi cơ hội và thời gian để trẻ hình thành tính trách nhiệm. Trẻ học như một cái máy bởi chúng được dạy rằng: nếu chúng học hành tốt ở trường, chúng sẽ có 1 tương lai tốt đẹp. Chúng sẽ hình thành một lối suy nghĩ sai lầm rằng: người lớn đã vạch sẵn con đường đi cho chúng và chúng chỉ việc bước theo. Với những đứa trẻ học kém, chúng sẽ đổ lỗi cho học hành với thái độ mình là nạn nhân: vì học kém mà cuộc đời chúng thất bại.

5. Gắn sự học với nỗi sợ hãi. Với hầu hết học sinh thì việc thi cử gắn liền với sự lo lắng bất an. Mình có một cuộc đời với biết bao nhiêu kỳ thi. Mỗi lần vào phòng thi là một lần tim đập muốn rơi ra khỏi lồng ngực. (Theo mình thì tất cả những ai đi thi cử một cách nghiêm túc sẽ đều có cảm giác này). Hiện hữu trong các kỳ thi là nỗi sợ hãi bị trượt. Trên thực tế, hiếm ai có thể cho rằng học = chơi mà học = work (làm việc).

6. Ngăn cản lối suy nghĩ tích cực/phản biện (critical thinking). Một trong các mục tiêu của giáo dục là tăng cường khả năng suy nghĩ tích cực. Với hệ thống giáo dục bắt buộc, học sinh chỉ học theo sách giáo khoa/giáo trình. Điều này khiến cả những học sinh giỏi cũng từ bỏ lối suy nghĩ tích cực. Chúng dành thời gian vào việc làm các bài test, học những gì thầy cô muốn chúng học để lấy điểm cao, hơn là việc phải suy nghĩ tích cực. Hậu quả là cả một thế hệ thụ động ra đời.

7. Giảm sự đa dạng hóa kiến thức và các kỹ năng sống. Việc bắt học sinh cùng học một loại giáo trình giống nhau đã chặn mất khả năng đa dạng các giải pháp. Trên thực tế, giáo trình chỉ cung cấp một phần nhỏ lượng kiến thức và kỹ năng sống cần thiết. Như vậy tại sao lại bắt học sinh cùng học cái phần nhỏ kiến thức giống nhau đó? Khi để cho trẻ tự do suy nghĩ, chúng sẽ cho ra những lối suy nghĩ mới, những giải pháp khác nhau cho 1 vấn đề, thậm chí là những suy nghĩ ngoài sức tưởng tượng của người lớn, của thầy cô – điều rất cần cho tiến hóa và phát triển. Mặt khác, hệ thống giáo trình định sẵn sẽ khiến học sinh không còn thời gian hình thành và theo đuổi những đam mê riêng của chúng.

Nêu ra vài điểm trên không có nghĩa là chúng ta từ bỏ trường học hay bỏ mặc trẻ em. Người lớn vẫn cần có trách nhiệm giúp trẻ em và vị thành niên nhưng bằng cách cung cấp cho chúng những cơ hội để tự giáo dục, tự hình thành tính trách nhiệm và tự định hướng tương lai.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét