Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 28 tháng 9, 2021

ƯỚC MƠ TRÚNG SỐ

 ƯỚC MƠ TRÚNG SỐ


Sau khi đưa bài  BÍ ẨN VẠN HOA  có anh bạn @Hai Luong comment rằng :" Bây giờ theo gương cô hàng xén ngày xưa, cứ Việt lốt ta tẩn chẳng may trúng mấy chục tỷ xuống Đồ sơn, khu đô thị Hòn Dấu làm cái biệt thự sát biển ở cho mát ". 

Trong cuộc sống bề bộn người khôn của khó, đã mất công mơ là phải mơ lớn như anh ấy, biết đâu Thần may mắn lại ưu ái cho người có tâm hồn lãng mạn, cho người biết ước mơ. 

Không phải riêng anh ấy có ước mơ được một lần giống cô hàng xén như thế, mà có hàng vạn người trên thế giới mơ ước mỗi ngày.


****


Đầu thế kỉ 20, trước cổng một trường học bên Hoa kỳ có đôi vợ chồng già bán bánh rán cho các cháu học sinh mỗi sáng giá 10 cent/ cái. Do làm lâu năm có bí quyết và kinh nghiệm nên bánh của ông bà rất ngon, làm ra hàng ngày đều bán hết sạch nên cuộc sống của ông bà dư dả, rất ổn.

Một ngày kia ông mua tờ vé số giá 20 cent vui chơi mà không có mơ ước lớn như anh bạn comment ở trên. Sang tuần sau, khi bán hết số bánh sớm đôi vợ chồng đẩy xe về nhà, mượn ông hàng xóm tờ báo đối chiếu kết quả. Ông ngã ngửa người , mồm miệng líu ríu : 

- Bà ơi mình trúng số độc đắc rồi !!!

- Thật hả ông ? Xem kĩ lại đi!!!

Ông trúng số thật, số Độc đắc, Một triệu dollas . 

Đầu Thế kỉ 20, một triệu dollas là số quá lớn không thể tưởng tượng nổi. Từ đôi vợ chồng vô danh nghèo khó, ông bà đã bước hẳn sang  giới thượng lưu lúc bấy giờ, vì khối tài sản khổng lồ.

Ông bà đã là triệu phú dolla rồi, triệu phú ai lại đi bán bánh rán, cái xe đẩy hôm nào ra bãi sắt vụn. Ông bà sống đời sống phong lưu khác xưa. 

Tin ông trúng xổ số lan ra toàn thành phố. Hội Nhà thờ, Hội hướng đạo, Hội trẻ em mồ côi..v..v..các loại đoàn thể đến nhà ông bà đề nghị chia sẻ theo kiểu Lộc bất tận hưởng. Chẳng đặng đừng ông bà cũng phải san sẻ mỗi nơi một tí.

Khối tài sản quá khủng nhưng phải chia sẻ theo kiểu không chia không được, chi tiêu hàng ngày hơn cả thượng lưu mà lại không làm gì sinh lời thì núi cũng phải lở. 

Chẳng bao lâu hai ông bà trở về cái hũ nhào bột như ngày xưa, họ lại tiếp tục mua bột làm bánh rán bán trước cửa trường.

Khi ông bà thôi thì có người làm bánh bán thay ông, nay ông bà lại làm bánh bán thì họ bảo người giàu làm bánh sao mà ngon được, hàng trở nên ế ẩm.

Rồi đôi vợ chồng phải chuyển chỗ ở sang thành phố khác để xóa dấu vết trúng số thượng lưu, tiếp tục làm nghề truyền thống nuôi thân, để sống nốt cuộc đời còn lại trong bình dị âm thầm .


****


Đó là ở nước Mĩ xa xôi, còn ở Việt nam thì sôi động hơn nhiều. Từ các thành phố lớn hoa lệ đến các chợ quê hàng quán xa xôi, bất cứ nơi nào nhiều nhất là các tỉnh miền nam  cũng thấy các cô, các cháu tay cầm sấp vé số đi dạo khắp hang cùng ngõ hẻm kiên nhẫn chào mời. 

Không phải 6 tháng mở một lần như xổ số Đông dương. Công ty xổ số tỉnh nào cũng có, ngày nào cũng có mở kết quả từ bắc chí nam. Bài toán nhân nghĩa bỏ chút tiền nhàn rỗi kiến thiết quốc gia đã biến thành trò kinh doanh may rủi.

Mỗi tờ vé số bán được thì có hoa hồng mà cần ít vốn nên nhiều cháu đi bán. 

Có bác gì là đại biểu của dân trong quốc hội ta bảo mỗi cháu bán vé số có thể kiếm được vài chục triệu đồng một tháng. Chắc nhà bác ấy có con, cháu đi bán vé số mới hiểu rõ mà phát biểu như thế. 

Chúc cả họ nhà bác ấy có nhiều con cháu đi bán vé số. Chẳng bao lâu nữa cả họ nhà bác ấy sẽ trở nên giàu có hơn xưa.


Bây giờ thế hệ @ 4.0 kết quả lan truyền ngay đến người chơi qua mạng, rất tiện. Hồi xã hội kĩ thuật số mới 0.4 thì đến giờ thông báo kết quả xổ số trên các phố Hà nội có những chú bé tay cầm sấp giấy chạy dọc phố rao to : 

- Kết quả đê! Kết quả đê! Kết quả đê..ê.. ê...ê ! 

Bán 500đ/ tờ. Xa xa nghe như:

- Chết cả đê ! Chết cả đê ! Chết cả đê..ê..ê...ê!

Rất hài hước. 

Rồi nhạc hiệu Xổ số trên đài truyền hình trước giờ xổ số cũng rất nhộn nhịp , được dân nghiện chế thành :

- Nhân dân chết với tao keng.. keng  ! Công nhân chết với tao keng.. keng  ! Sinh viên chết với tao ! keng.. keng...

Kết quả ai cũng thấy xung quanh chúng ta có rất nhiều người nghiện các con số. Họ xuất bản hẳn một bảng tra từ giấc mơ sang số như bảng tra logarit. Như mơ thấy lửa, thấy nước, thấy Mỹ Tâm, Hồng Nhung... là số bao nhiêu. Rồi thêm quy luật Nam thò Nữ thụt, rất sáng tạo.

Có người không ham thì bảo: Nếu tính toán được thì bọn Viện Toán học, Viện khoa học tính toán và điều khiển Viện Khoa học Việt nam nó xơi hết, đâu đến lượt các ông. 

Người ham lại nói : Cuộc sống bây giờ nhiều chuyện, bỏ ra ít tiền đến 18g00 là có được chút hồi hộp, hy vọng và sung sướng. Không có niềm vui nào rẻ hơn thế.

Có một điều chắc chắn rằng những  Dự án Sáng cấy chiều gặt 99,9% là thất bại, chỉ có Công ty xổ số là ăn nên làm ra.

****

Nhưng dù sao cũng chân thành chúc các con người lãng mạn với ƯỚC MƠ TRÚNG SỐ sớm trở thành hiện thực, để trên quê hương Việt nam yêu dấu có nhiều, rất rất nhiều VẠN HOA hơn nữa, giống ở Đồ sơn Hải phòng.


NBS

Ngày 1 Tháng Mười, Mùa Thu 2021

Ảnh : Hi vọng, hồi hộp và sung sướng.









Thứ Ba, 21 tháng 9, 2021

LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRỞ THÀNH CÔNG DÂN ÚC

LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRỞ THÀNH CÔNG DÂN ÚC


Nhiều bạn bè trên face book thường chưa gặp nhau bao giờ nhưng vẫn có những trao đổi về cuộc đời rất thú vị , đáng được chép lại để ghi nhớ.

Bố bà Thanh là bộ đội cho đến khi kết thúc kháng chiến chống Pháp. Hòa bình lập lại, ông về nông thôn làm Đội trưởng đội  cải cách ruộng đất, nhất Đội nhì Trời mà, to lắm. Đi làm cải cách ruộng đất nhưng ông Đội trưởng lại để ý, đem lòng yêu thương một cô gái rất nền nã xinh đẹp, con địa chủ. 

Ông bị tổ chức ra lệnh tạm giam để cách ly mối tình cay nghiệt . Trong nơi giam giữ, ông chặt ngón trỏ bàn tay trái, viết tâm thư lên chủ tịch nước rằng tình yêu trai gái nó không có biên giới, không có khoảng cách. 

Sau bốn tháng lao tù ông được thả ra. Nhưng giai cấp nọ lấy giai cấp kia trong giai đoạn này là không hợp thời trong con mắt lãnh đạo.

Ông bố phải rời quân ngũ vì không còn cơ hội phát triển. Về địa phương làm ăn bình thường như bao người. Bà vợ sinh cho ông hai người con trai, một cô gái út là bà Thanh.

Do ở địa phương cũng bị kỳ thị , ông bà đưa các con lên thành phố Nam định sinh sống. Gia đình cũng có quan hệ họ hàng với vài vị quan chức nhà nước nhưng nhất quyết không nhờ vả. Vì vậy họ hàng cũng xa cách với gia đình ông bà.

Do vẫn mặc cảm việc lấy con nhà địa chủ mà trở ngại trên đường thăng tiến nên ông luôn nói với các con sau này không đứa nào được vào làm việc trong nhà nước, bằng sức mình làm lấy mà ăn. Không cầu xin quị lụy ai cả. 

Rồi thống nhất đất nước , một thời kỳ khó khăn còn hơn cả thời chiến tranh vì không còn viện trợ từ nước ngoài. Nồi cơm của mọi nhà không còn gạo trắng mà phải độn khoai, sắn , ngô, mì ....bữa đói, bữa no.

Đàn con dần dần đã lớn, ông bà cho các con đi học nghề nghiệp lo thân sau này, bà Thanh đi học Y Thái bình.

Khi tốt nghiệp một cậu con trai lên Hà nội sinh sống, một cậu đi lao động Đông âu rồi ở lại luôn, bà Thanh vào Sài gòn hành nghề bác sĩ.

Nơi vùng quê mới, bà Thanh lập gia đình với một ông công an quê Sơn tây xứ Đoài . Họ sinh được hai người con, cậu con trai lớn và cô con gái bé nhỏ.

Mới ngày nào còn bỡ ngỡ với Sài gòn, nay đã quá đỗi thân thương. Người Sài gòn hiền hậu bao dung, đất Sài gòn thênh thang rộng mở đón nhận biết bao thân phận các miền quê về đây lập nghiệp. 

Công việc nói chung thuận lợi nhưng bà Thanh vẫn luôn ghi nhớ lời dạy của đấng sinh thành về Đạo làm người ngày nào. Bà cũng mong hai đứa con yêu quý của mình đi theo con đường ấy.

Ngành Y có nhiều người tốt nhưng vẫn còn đây đó những con sâu làm xấu hình ảnh Lương y phải như Từ mẫu. Bà thấy rằng người bệnh ở Việt nam là khổ nhất, họ thường là nghèo khó hơn  so với cộng đồng.Tiền nong đã thiếu thốn mà lại gặp những bác sĩ thiếu lương tâm thì coi như sạt nghiệp. 

Thuốc chữa bệnh mua một thì bán giá ba, bốn mà đâu có được mặc cả. Rồi các loại thực phẩm chức năng ( không phải là thuốc) cũng được kê dài dằng dặc để kiếm hoa hồng. 

Trên đôi vai người bệnh gánh biết bao loài kí sinh hút máu không tanh. Khỏi bệnh thì bác sĩ tài giỏi , không khỏi thì do bệnh nặng quá. Bác sĩ không phải chịu trách nhiệm gì.

Trong những ngày ban sơ nhập trường Y Thái bình, bài hoc đầu tiên là về Đạo đức , về Lời thề HYPOCRATE của người thày thuốc vẫn còn văng vẳng đâu đây.

Bà Thanh cảm thấy áy náy trong lòng, bà tự đi đến một quyết đinh động trời : Rời bỏ nghề bác sĩ cho lương tâm khỏi bị cắn rứt để làm kinh doanh bất động sản, lấy tiền cho thằng con du học.  Trong khi hành nghề bác sĩ , bà cũng có mua bán nhà đất một hai lần , thấy cũng có kết quả tốt.

Cũng có tranh luận nảy lửa trong gia đình, nhưng dòng máu kinh doanh đang sôi sục trong người, bà Thanh quyêt đi theo tiếng gọi xa xôi mà đầy hy vọng của công việc mới.

Bà nói rằng : Mèo nhỏ bắt chuột nhỏ . Cứ đi xem xét nhà đất cái nào ưng ý là mua, bỏ vốn xây cất hoặc cải tạo rồi rao bán. Cũng may thị trường hồi đó rất cần nhà mà chưa chú ý tiêu chuẩn cao nên xong cái nào là bán được luôn.


Khi gặp lại bạn bè cũ bà Thanh vẫn hay nói đùa chúng mày làm ăn vừa phải thôi, chết không nhắm được mắt đâu.

Gần hai mươi năm trôi qua , trong tay đã có vốn khá. Từ cô gái Nam định nhút nhát đến Sài gòn , nay bà Thanh trong vai nhà Đầu tư tự lái ô tô phóng vun vút trong dòng xe cộ vô tận không lúc nào ngơi nghỉ của Hòn Ngọc Viễn Đông ngày nào.

Bà Thanh cho cậu con trai đi du học Úc , cũng học nghề xây dựng để phụ giúp mẹ, đến nay cũng đã tốt nghiệp vài năm, đang làm cho một công ty xây dựng, lương 90 000 ASD / năm và đã có Quốc tịch Úc. 

Hiên nay cậu đã có nhà riêng ở thành phố Melboune, bang Victoria , Đông Nam nước Úc. Trong khi nhiều người bản địa hay nhập cư sang trước vẫn còn đi thuê nhà.

Lương như vậy là trung bình, đủ sống nhưng cũng phải lao động cật lực sớm hôm không thong thả như ở quê nhà. Nhưng điều quý nhất mà mẹ con bà ai cũng mãn nguyện là được sống làm việc ở một nơi không có tham nhũng, không cần nịnh nọt , cầu xin ai . Mọi người đều bình đẳng trong một môi trường trong lành. 

Hai năm trước, công ty hỏi cậu có muốn về Việt nam làm chủ Dự án lương 180 000 ASD / năm không ?. Về hỏi ý kiến, bà Thanh khuyên tuổi còn trẻ chưa cần tiền, hãy cứ học hỏi mai đây làm công ty riêng.

Cô con gái cũng theo ông anh sang Úc học trung học, hiện đang theo học Đại học báo chí. Bà mẹ chỉ còn phải lo tiền học phí một năm nữa vì cháu vừa học, vừa làm part time bưng bê rửa đồ cho một quán ăn là đủ tiêu vặt. Về còn khoe với mẹ ngày mới sang con sợ lắm, nay đứa tây nào làm sai con có thể mắng nó, rất tự tin. 

Cuối năm 2019 bà Thanh sang Úc thăm các con đến nay chưa về đươc vì vướng dịch covid 19, phải xin gia hạn visa. Thấy nhà cửa đất đai rộng rãi thế là mua đi bán lại sữa chữa rồi bán cũng được vài căn nhà. Căn đầu tiên có cậu con trai trợ giúp, các căn sau bà đều tự chủ tiến hành.

 

Tôi hỏi làm thế nào mà chuyển vốn sang đó được? Ôi dào chỉ sợ không có tiền thôi, thị trường nó làm được tất ! . Thật là người tài giỏi.

Mua bán bên Úc rất hay là chỉ làm việc với công ty môi giới, đi xem nhà theo lịch hẹn rồi trả giá, khi hai bên nhất trí xong là luật sư sẽ hoàn thiện giấy tờ mà không phải gặp ông địa chính phường, quận nào cả, chả gặp ông công chức nhà nước bao giờ. Làm có lãi, đóng thuế đầy đủ là OK.

Cậu con trai đang hoàn thiện thủ tục bảo lãnh cho mẹ sang làm công dân Úc. Khi được, bà Thanh sẽ bảo lãnh cho cô con gái sau.

Như vậy mẹ con bà Thanh tự tin sẽ trở thành công dân xứ sở Canguroo theo con đường chính thức trong một vài năm tới đây.


Chúc mẹ con bà sớm đạt ước mong và đừng bao giờ quên rằng mình đã từng là Con Rồng Cháu Tiên nơi quê hương Việt nam yêu dấu.


Trời hại thì mới chết, còn người hại thì cứ bình tĩnh mà sống yên vui. Ca dao Việt nam đã có câu rằng:

Trời mà làm hại thì thôi.

Người làm hại thì (vẫn) no xôi chán chè.



Mùa Trung thu 2021

Ngày kết thúc giãn cách chống dịch covid.


NBS

22/09/2021


Ảnh : Du học ở Melboune, nam Úc

và Canguroo - Biểu tượng của xứ sở 

















Thứ Sáu, 17 tháng 9, 2021

CÓ TA MÀ CŨNG CÓ TRỜI Ở TRONG

CÓ TA MÀ CŨNG CÓ TRỜI Ở TRONG


Cùng phòng với tôi là ông Ngạc, ông Kiểm và ông Nghiêm. Bốn anh em chung một phòng, ông Nghiêm lẳng lặng ít nói mà nói câu nào chắc câu ấy, ông có món quả mắc mật muối với tỏi ớt tuyệt ngon, ngược lại ông Kiểm, ông Ngạc rất hay chuyện.

Cứ có thời gian rỗi là hai ông thi nhau kể cho mọi người trong phòng nghe tất cả những câu chuyện trên trời, dưới biển về cuộc đời của chính mình một cách say sưa .

Gặp tôi là người biết lắng nghe nên hai ông rất khoái, cứ túm mình kể chuyện suốt ngày, đôi lúc chen vào những câu chuyện tình ái lãng mạn đã trải qua . Không khí trong phòng không ủ dột như các phòng bệnh khác mà luôn sôi động vui tươi.

Nguyên liệu sẵn có người mang đến, tôi chỉ việc ghi chép, sắp xếp các chi tiết lại, thế là thành câu chuyện này.


Ông Kiểm đang đưa ma cho bà vợ đến Hoàn vũ thì phải nhập viện cấp cứu do không thở được, việc đưa tro cốt bà ấy về quê đành chuyển giao cho các con ông lo.

Nằm viện mà điện thoại liên tục chỉ đạo người này, người kia cho xong đám. Khi xong việc ông rất vui vì bà vợ ông ốm đau lâu quá rồi nay đã mồ yên mả đẹp.

Ông Kiểm quê ở Hải Dương, con một gia đình nông dân bình thường. Ông có người cô ruột lấy chồng ở đường Phùng Hưng Hà Nội, bố ông Kiểm gửi ông ra với cô để học nghề.

Cô dạy rằng cháu ở đây cô nuôi ăn, nuôi học thì phải ngoan ngoãn học hành tử tế, sau này cô dựng vợ gả chồng cho.


Chồng bà cô có người quen, ông xin cho Kiểm vào Tổng cục đường sắt làm trong ga Hàng Cỏ.

Ông Kiểm là một người lực lưỡng cao khoảng mét tám, tay chân, ngực lông lá rậm rì như tây. Tướng mạo quắc thước đi đứng khoan thai, đặc biệt ông có bộ lông mày đen nhánh rậm rì. Bộ dạng ấy làm cho các bà, các cô mê mẩn, ông lấy làm tự hào vì điều đó.

Những ngày nghỉ ông thường về Phùng Hưng chơi với bà cô. Cạnh nhà bà cô có một gia đình tư sản làm nghề kinh doanh vận tải ô tô, mới bị nhà nước Việt nam thu hồi tài sản, nhà cửa trong công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.

Gia đình đó có một cô con gái tên Nguyệt đang độ tuổi trăng tròn lẻ, gặp sự kiện đó Nguyệt buồn lắm, thường ở trong nhà.

Thứ bảy, chủ nhật Kiểm về nhà bà cô hay gặp Nguyệt và hỏi han dăm ba câu chuyện. Khi đã quen biết Kiểm rủ cô đi chơi, Nguyệt sau vài lần khước từ rồi cũng đồng ý.

Ngày xưa trai gái đi chơi với nhau thì chỉ đạp xe ra công viên ngồi tâm sự, cầm tay nhau rồi ôm hôn nhau là cùng.

Ông Kiểm thấy mọi việc tiến triển thuận lợi liền đặt vấn đề thì Nguyệt trả lời là em rất thích anh nhưng mà thành phần hai chúng ta như vậy là nhà em không chấp nhận được, mong anh thông cảm.

Biết không thể nào níu kéo được, ai cũng tỏ ra buồn bã và hai người quyết định chia tay. Khi đó ông Kiểm nhận quyết định đi học lái tàu bên Quế Lâm Trung Quốc.

Hồi đó miền bắc đói khổ lắm nhưng đi học lái tàu thì hưởng tiêu chuẩn chuyên gia, rất sung sướng. Học được một năm rưỡi thì trở về làm phụ lái tàu hỏa chạy bằng hơi nước.

Tàu hỏa chạy trên đường sắt vận chuyển người, vũ khí , hàng hóa rất lớn. Công việc cũng nặng nhọc, đôi khi nguy hiểm vì máy bay Mĩ ném bom trên mọi tuyến huyết mạch không kể ngày đêm.

Biết vậy, ông Kiểm về quê lấy vợ, rồi vợ sinh cho ông ba thằng con trai.

Làm lái tàu cũng là làm công việc quan trọng, vận chuyển hàng hóa vũ khí ra chiến trường nên ông Kiềm không phải đi lính.

Cho đến năm 1975 ông được tham gia Ban Quân quản của Tổng cục Đường sắt tiếp nhận các cơ sở Đường sắt của chính quyền Sài gòn.

Ông được mặc quân phục, đội mũ cối đi làm việc trông bệ vệ oai phong như một vị tướng. Dù chỉ là anh lái tàu nhưng đối tác luôn nghi ông như một vị chỉ huy đóng giả làm lính trong đoàn công tác.

Chả phải bắn phát súng nào, ông đến Hòn ngọc Viễn Đông với vai trò người thắng cuộc. Cuộc sống nơi đây làm cho nhận thức của ông sáng ra biết bao điều.

Nó không như các điều đã từng học, từng nghe, từng làm. Sau chuyến đi Sài gòn ông Kiểm trở về lái tàu tuyến Hà nội -Lào cai, Hà nội - Sài gòn

Trên chuyến tàu Hà nội- Lào Cai sau 1975 ngoài hành khách thông thường thì còn có lớp hành khách mới, rất đặc biệt .

Đó là rất nhiều các bà, các cô hàng tháng, hàng quý mang đồ tiếp tế cho chồng, cho cha là sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng hòa bị cải tạo ở trên vùng núi Yên Bái.

Để mang được hàng hóa trên con đường xa xôi cách trở không bị mất mát suy chuyển , được bố trí chỗ ngồi ổn định trên các con tàu chợ vô thiên, vô pháp lúc bấy giờ không gì tốt hơn là làm quen với mấy ông lái tàu.

Vào một ngày mùa đông 1977 có một phụ nữ miền nam chừng 35-36 tuổi còn vẻ đẹp mặn mà, sang cả trong bộ quần áo đơn sơ sẫm màu đến xin gặp ông Kiểm nhờ giúp đỡ vận chuyển đồ tiếp tế cho ông chồng là trung tá trong quân đội Việt nam cộng hòa đang đi cải tạo ở Yên bái.

Bằng sự nhã nhặn lịch thiệp của người có văn hóa, người phụ nữ có tên là Hải Băng đã thuyết phục được ông Kiểm ngay lần lần gặp đầu tiên. Ông đồng ý và yêu cầu các đồng nghiệp chú ý sắp xếp.

Rất nhiều chuyến đi như thế trong khoảng 5-6 năm, từ hai người xa lạ ông Kiểm và Hải Băng đã trở nên thân thiết.

Cứ mỗi lần Hải Băng ra bắc hay ông Kiểm vào Sài gòn với họ là những ngày vui bất tận, hạnh phúc vô bờ.

Sang khoảng năm 1983, Hải Băng nói với ông Kiểm rằng:

- Anh ạ, chồng em đi cải tạo thế này không biết bao giờ được về. Tiền bạc thì em cũng hết, em cũng không thể nào mà theo mãi hành trình này được. Em đã bàn với chồng và ông ấy cũng đồng ý rằng hiện em và gia đình được đi Mỹ theo tiêu chuẩn HO, là diện ra đi có trật tự. Khi nào chồng em được ra thì ổng sang sau theo dạng đoàn tụ gia đình. Nếu anh đồng ý thì anh với em ra đi, cùng nhau xây dựng cuộc đời mới !. Em chỉ thích hình dáng anh mặc quân phục vào, trông như một ông tướng.

Như nghe một tiếng sét giữa trời quang. Ông Kiểm lặng đi một hồi lâu :

- Việc này hệ trọng , phải cho anh một tuần suy nghĩ.

- Dạ, em đã suy nghĩ từ lâu. Anh có hai tuần để quyết định nhé. Chỉ cần anh đồng ý là mọi việc em sẽ lo và chúng ta sẽ rời khỏi Viêt nam trước Noen năm nay.

Ông Kiểm lòng rối bời, một phần nào ông cũng tưởng tượng cuộc sống của ông và Hải Băng nơi nước Mĩ xa xôi qua lần làm quân quản trong Sài gòn và nhiều nguồn khác của những người vượt biên bằng thuyền thời đó.

Còn một bên khác nữa đó là tình nghĩa sâu đậm của người vợ tảo tần và ba cậu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn

Qua những lần sang biên giới, rồi vào nam ông cũng mua nọ bán kia để giúp gia đình nuôi con lên người. Mấy năm trước vợ ông ngã cầu thang, may không chết nhưng không lao động được nữa, trở thành phế nhân.

Phải gửi bà vào trung tâm nuôi dưỡng người cô đơn, thêm nữa, thằng con thứ ba cũng điên điên, dở dở cũng phải nhờ người quen đưa vào trại tâm thần. Rất may là hai thằng con trai cũng lớn bắt đầu làm việc để tự nuôi thân.


Bên tình , bên nghĩa bên nào nặng hơn


Hai tuần sau ông trả lời Hải Băng rằng ông không thể bỏ tình nghĩa vợ con mà đi được. Hải Băng cũng không có gì trách ông, họ lưu luyến chia tay không hẹn ngày gặp lại.

Mùa Hè năm nay mấy anh em chúng tôi đi chơi vùng Phú thọ đứng dưới gốc xoài gần năm mươi tuổi trồng từ hạt giống của những người phía bên kia ra miền Bắc thăm nuôi người thân đi cải tạo nơi đây đã to lớn thân cây gần hai vòng tay người ôm.

Kinh tế gia đình quá khó khăn, đồng thời ông Kiểm làm đơn xin nghỉ hưu sớm để về kinh doanh nuôi vợ con. Cơ quan không đồng ý cho ông về hưu, họ bảo nếu muốn thì ông làm đơn xin thôi việc.

Cực chẳng đã ông cũng đồng ý rời khỏi nhà nước mà không có khoản gì sau này.

Do trước có việc phải chở hàng vô Sài Gòn nên ông cũng biết được một vài mánh lới của những người buôn bán bắc nam, thế là ông về thuê ngôi nhà Khâm Thiên, bắt đầu công cuộc làm nghề may mặc, thời trang và bán quần áo.

Tôi hỏi ông :

- Tại sao ông lại chọn phố Khâm thiên?

- Vì nó gần cái nhà tôi trong ngõ Nhà Dầu mua từ hồi lái tàu, và Khâm Thiên có rất nhiều cửa hàng bán quần áo may sẵn, là tụ điểm may mặc tư nhân mở ra đón làn sóng đổi mới.


Ở giai đoạn này, biết nghề may là quan trọng nhưng biết nguồn cung cấp vải vóc nguyên phụ liệu còn quan trọng gấp bội phần.

Ông Kiểm lại biết có nhà máy muốn bán sợi bông , ông đến liên hệ trước giành mối. Sau đó vào Sài gòn làm việc với nhà máy dệt Phong phú đang thiếu nguyên liệu sản xuất, mang sợi vào đổi lấy vải .

Hai bên đồng ý phương án của ông, mang sợi đổi lấy vải , bán vải ra thị trường thu trả tiền sợi, để lại một phần vải cho xưởng của ông cắt may quần áo bán tại cửa hàng hoặc may đồng phục cho các cơ quan. Lãi một đi đôi.

Từ trong tay không vốn liếng làm mấy năm ông đã có trong tay mấy chục tỷ. Ông Kiểm tự hào nói khi đó tôi đã mua hai chiếc ô tô TOYOTA , một chiếc Blue Birth, một Crown chạy công việc tung tăng.

Thấy ông làm ăn được, người chủ đòi nhà. May qúa nhà bên cạnh to rộng hơn muốn bán, ông trả nhà rồi mua luôn nhà mới.

Ông mở rộng xưởng, thuê thêm công nhân, nguyên liệu vải vóc lúc đó đã sẵn ông nhập vải về may copy các mẫu áo Jacket của tây treo bán, lãi mỗi cái hàng nửa chỉ vàng.

Rồi mang sản phẩm đi bán ở các Hội chợ từ miền núi phía bắc đến tận Quảng bình.

Ông theo dõi những biến động thời trang từ nước ngoài để áp dụng cho sản phẩm của ông. Ông có thể quyết định thay đổi, thêm, bớt các chi tiết ăn khách trên sản phẩm mà không phải họp hành với ai nên hàng của ông hợp thời trang, bán rất chạy.

Ông được mời báo cáo điển hình chủ doanh nghiệp tư nhân ngành may mặc toàn quốc.

Trong báo cáo ông nêu cao chữ Tín trong kinh doanh và sự nhạy bén trong ngành may mặc thời trang. Hôm nay chiếc áo này đẹp mọi người tranh nhau mua, nhưng mùa sang năm cho không ai mặc.

Chính cái nhậy bén đó đã biến ông lái tàu hỏa thành ông chủ doanh nghiệp thành công trong công cuộc kinh doanh hàng may mặc mà chưa qua lớp đào tạo thời trang nào.

Ông nói với tôi rằng:

- Tôi mà được học như các ông thì tôi còn giàu nữa.

Tôi trả lời:

- Cho đến bây giờ tôi mới biết, cái học của chúng tôi không phải cái học khai phóng mà là đào tạo một lớp người thực thi trong khuôn khổ. Nó luôn luôn có một vòng kim cô vô hình xiết lại các ý tưởng cải cách phóng khoáng ; chỉ những người dũng cảm mới dám vượt qua. Chính nhờ không biết nó hoặc liều lĩnh, có gan làm giàu nên ông không ngán cái gì để tiến tới giành lợi nhuận cho doanh nghiệp cuả mình. Khi biết được điều đó thì mình đã già và bây giờ chúng tôi chỉ mong khỏe mạnh bình yên để được chứng kiến những đổi thay ngoạn mục của cuộc đời.

Làm được mấy năm nữa , thị trường cũng bão hòa. Ông Kiểm chuyển sang buôn bán bất động sản. Ông nói cho đến lúc này đời ông đã xây 14 cái nhà trong khoảng 25 năm. Thật là một kỉ lục đáng ghi nhận.

Lúc vào điều trị ông còn đang hoàn thiện một cái nhà có thể gọi là cuối cùng của ông.

Ba thằng con có ba nhà, hai đứa cháu nội du học Hoa kỳ.

Đặc biệt ngôi nhà ở Lương Thế Vinh ông xây xong thì có đôi vợ chồng ở Hoài đức thuê bán hàng ăn. Lúc được thì vui vẻ, khi ế ẩm hai vợ chồng trục trặc lôi nhau ra tòa li dị.

Ông Kiểm phải về tận quê hòa giải trong vai ông chủ nhà, vợ chông nó phải kêu ông bằng chú. Hòa giải không thành, mỗi đứa mỗi nơi.

Có điều thú vị là hiện tại cô vợ về ngôi nhà của ông, ở chung với ông Kiểm trong vai bà út. Ông Kiểm năm nay 83 tuổi, bà út 45 , kém ông 38 năm, kém cả tuổi mấy cậu con trai.

Ông nói chăm ông vài năm khi nào ông chết thì chia cho mẹ con cô một nửa ngôi nhà, một nửa chia cho các con của ông.

Có hôm ông bảo vợ hầm con chim mang ra bệnh viện cho ông xơi, chủ yếu là để khoe bà út với các ông bạn trong phòng.

Một ông hộ pháp bên cô chim chích cao 1m52, hình ảnh thật là vui. Anh em trong phòng hỏi thế các bác vẫn sinh hoạt chứ?, Thì vẫn giao ban đều đặn !. Vậy thì còn lâu cụ mới chết !.

Họ sống rất hạnh phúc và vui vẻ.

Đến đây tôi bỗng nhớ tâm sự của người bạn cùng lớp được một Doanh nhân thành đạt chia sẻ :

Mọi suy nghĩ, hành động của mình, mình làm theo đòi hỏi của thực tế công việc, làm sao mà tính toán được xa xôi. Mọi sự thành công to lớn trong đời phải có một Đấng Tối cao siêu hình nào đó trên tít tận trời mây sắp xếp, dẫn dắt, chỉ lối đưa đường.

Cụ Nguyễn Du chả từng viết :

CÓ TRỜI MÀ CŨNG CÓ TA đó sao.


NBS

18/09/2021

Ảnh : Dưới bóng mát cây xoài miền nam gần 50 tuổi










Thứ Hai, 13 tháng 9, 2021

CÓ NHÂN CÓ ĐỨC MẶC SỨC MÀ ĂN

CÓ NHÂN CÓ ĐỨC MẶC SỨC MÀ ĂN


Ông tên là Ngạc nhà ở ngõ chợ Khâm Thiên.  Cụ thân sinh ông người Phùng khoang, cụ bà người Mỗ lao.

Hai cụ lấy nhau rồi sinh ra ông Ngạc ở đó,  bà cụ mẹ ông là một phụ nữ xinh đẹp và giỏi giang.  Cụ có tài làm bánh khéo léo và ngon có tiếng. Nhờ vậy mà cụ rủng rỉnh, nuôi sống cả nhà trong no đủ ấm êm. 

Sáng sáng cửa hàng bánh của cụ tấp nập người mua kẻ bán. 

Trong số họ có nhiều ông khách đến mua buông lời cợt nhả ong bướm nên cụ ông nổi máu ghen, sợ mất vợ yêu nên quyết định đưa cả nhà về quê ở  Phùng khoang bán hàng.

Ông Ngạc hồi còn nhỏ  đi học trường Thăng Long. Do được nuông chiều từ bé,  bản tính ông thích chơi bời không ham sách vở. Cứ cầm cuốn sách là mắt cứ díu lại , rất buồn ngủ.

Nhưng với công việc hoạt động ngoài trời ngoại khóa thì ông rất nhanh nhẹn, năng động. Ông xin cha mẹ cho đi học võ , người tuy nhỏ con nhưng học rất mau các đòn đánh vì ông thích, ông ham học. 

Để đạt được trình độ cao trong võ nghệ thì phải khổ luyện nhưng ông Ngạc vẫn kiên trì vượt qua. Các đối thủ dù to cao ông cũng không ngán, dám đánh và đánh thắng nên ông được nhiều bạn bè nể phục. 

Ông còn nhớ ngày xưa cô giáo chủ nhiệm lớp tên là Oanh ở phố Nguyễn Văn Tố. Trong lớp có trò ngoan học hành nghiêm túc thì cũng có nhiều học trò rất hay nghịch ngợm tổ chức các trò ma mãnh.  

Để trị đám này, cô Oanh cho Ngạc làm tổ trưởng bảo vệ trật tự đeo băng đỏ để trấn áp học sinh hư. Tổ trưởng trật tự mà thuốc hút phì phèo. Cô Oanh biết nhưng cũng kệ, cô chỉ tận dụng cái mạnh của trò Ngạc mà thôi, Hồi đó nghe tên Ngạc là học trò trong trường đã ngán nên tình hình ổn định nhanh. 

Nhưng chính vậy mà Ngạc điều một điều hai chỉ nghe cô Oanh. Cũng nhờ cô mà Ngạc học xong lớp 7, tốt nghiệp cấp II. Đến khi chia sẻ câu chuyện này ông Ngạc đã hơn 70 tuổi, ông vẫn giành cho cô giáo Oanh những lời kính trọng. 

Khi học hết lớp 7, ông Ngạc bỏ đi làm nghề thợ gò hàn ô tô. Học hành thì kém anh kém em nhưng trong lao động ông lại rất khéo tay và sáng dạ nên được ông chủ là ông Sinh cụt ở 63 Đường Thành rất yêu quý.

Ông Sinh truyền hết tinh hoa nghề gò hàn xe ô tô cho cậu học trò yêu. Sau một thời gian ngắn  ông có thể biến tấm tôn  ra vỏ bất cứ một cái ô tô nào được chỉ định, y như thật. Đúng là một người thợ giỏi.

Ông Sinh cụt thường nói là tao có đứa con gái yêu quý xinh đẹp sẽ gả cho cậu học trò. Ông Ngạc thích lắm nhưng không dám nói vì đó là con gái ông chủ.

Nhưng người con gái này không thích anh Ngạc vì chê anh là nhỏ con, người ngoại thành. Cô lại yêu một người thanh niên trong phố Hà Nội, sau đó là có chửa trước khi cưới. 

Hồi đó là tội tày đình nên ông Sinh rất tức giận và anh Ngạc cũng buồn bã rồi chuyển sang làm cho ông Thường ở 92 Hàng Gai.

Nhờ có cái tính sáng tạo học hỏi, khéo tay hay làm nên ông Thường cũng rất quý Ngạc, người trợ thủ đắc lực của mình.  

Gốc tổ ông Thường  lai Ấn Độ do vậy da ngăm ngăm rất đẹp, ông có 9 người con gái đều xinh xắn. Ông cũng nói với Ngạc rằng mày ở đây làm với ông, mày thích lấy em nào thì ông cho.

Làm thì hay mà nói chuyện với gái thì dở, nên cũng không lọt được vào mắt em nào. Cái này không trách ông Ngạc được, phải trách ông Tơ bà Nguyệt lơ đãng mà không lấy chỉ hồng buộc chân chúng với nhau.


Cho đến năm 1965 thì chiến tranh lan rộng ra miền Bắc, phong trào nhập ngũ của thanh niên dâng cao để vào giải phóng miền nam. Ông có tên trong danh sách phải đi lính nhưng do tính tình ham chơi và cũng sợ Chiến Tranh ông quyết định trốn lính. 

Trốn lính hồi đó thì rất là khó khăn vì không ở cơ quan xí nghiệp nào là không có tem phiếu, không có thực phẩm lương thực thì sống làm sao. Nhà không quen ai ở nông thôn nên ông quyết định đi bụi đời , tức là lang thang phố phường trộm cắp mà sống qua ngày.

Bụi đời nó cũng có thế giới riêng, ra ngoài ông nhập ngay với một hội 5-7 người. Sống từ năm 1965 đến năm 1975 ở khu ở khu vực chợ Đồng xuân, Bắc qua, bến xe, bến tàu....  

Tôi hỏi ông  :

- Lấy cái gì mà ăn ?

- Thì ăn cắp quẩy, bánh bao, bánh mỳ...bất cứ thứ gì ăn được  Hoa quả thì mùa nào thức đấy. Nước uống, vệ sinh, tắm giặt ra vòi công cộng. Ngủ ngoài hiên , trong chợ bất cứ chỗ nào. Bụi đời mà.

- Thế quần áo, chăn chiếu ?

- Thì cũng đi ăn cắp cả, nhưng tôi tự hào nói rằng chúng tôi bụi đời nhưng là bụi đời có đạo đức. Sao lại là bụi đời có đạo đức, vì người ta có 10 thì tôi chỉ lấy của người ta 5 thôi. Ví dụ anh em tôi gặp thằng nào Con Nhà Giàu nó có 10 đồng thì tôi chỉ lấy 7 Đồng còn để giả nó 3 đồng. Có khi nó còn mang cho thêm.  Hay bánh trái, hoa quả  thì chỉ lấy của người ta một phần đủ dùng thôi còn để người ta buôn bán. Mình không thể lấy hết của người ta được

Quanh đi quẩn lại mười năm trôi qua vèo vèo. 

Năm 1975 giải phóng miền Nam. Cả nước thống nhất, Hòa Bình được lập lại ông lại trở về địa phương làm ăn lương thiện ,lấy vợ sinh hai con trai.

- Thế địa phương không hỏi 10 năm bụi đời à.

- Ôi dào , giải phóng rồi , Bận bao nhiêu việc , ai để ý đến mình nữa, mình sống tử tế làm ăn lương thiện mà. Hộ khẩu vẫn còn , nó cũng chả cắt.

Ông luôn luôn dạy các con là phải lấy đạo đức làm trọng.  Không ăn không nói có, ăn cắp như bố nữa. Ông tự hào nói với tôi rằng hai thằng con trai của ông hiện nay đều có mỗi thằng vài nhà cho thuê đủ sống đến hết đời.

Ông có một người bạn học làm vụ phó Bộ công thương cũng không to, cũng không phải là nhỏ, là một chức quan lại trung bình. Ông bạn sinh được người con trai, vợ chồng đi nước ngoài như đi chợ,  tiền bạc không thiếu nhưng thằng con lại bị nghiện ma túy.

Có lần ông nói chuyện ông Ngạc rằng  mày làm thế nào mà hai thằng con của mày đều ngoan ngoãn tử tế. Con tao mỗi một thằng đầy đủ như thế mà nó lại nghiện ma túy nặng .Chừng một tháng sau cuộc gặp thì con ông ấy bị sốc thuốc mà chết. 


Ông kết luận rằng ở đời chưa biết thế nào nhưng mình sống phải lấy Đức làm đầu.

Như các cụ dạy có Nhân có Đức mặc sức mà ăn.

Bây giờ ai qua chợ Phùng khoang gặp ông Ngạc làm bảo vệ quần áo chỉn chu , đầu chải bóng mượt thì đó là nhân vật chính của câu chuyện này.


NBS

13/09/2021

Sắp hết những ngày dãn cách vì covid 

Ảnh : Chợ Đồng xuân ngày xưa


Thứ Năm, 2 tháng 9, 2021

GHI CHÉP Ở TRƯỜNG SƠN

GHI CHÉP Ở TRƯỜNG SƠN 

Đường ra trận mùa này đẹp lắm ( Pham Tiến Duật)

Trường sơn có rất nhiều người viết, bài viết theo các giai đoạn và góc độ quan sát khác nhau. 

Tôi cũng vậy, Ghi chép ở Trường sơn là phác họa rất sơ lược những quan sát của mình trong một đoàn quân mang phiên hiệu 2013 đi bộ vào nam theo ngả phía tây dãy Trường sơn. 

Nó không theo trình tự thời gian , địa điểm mà  là các điều tôi nhớ lại, nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy. 

Các sự kiện được ghi lại bằng  ngòi bút nghiệp dư của người lính đã sống, đã trải nghiệm một thời gian trên con đường ra trận. 

Cũng tự biết là ghi chép còn non tay, chưa hay chưa nghệ thuật, muốn hay thì phải mài giũa, thêm tí son phấn, tí hoa hòe hoa sói nhưng tôi lại không thích làm như thế.

Nó mới chỉ là dạng quặng nguyên liệu chưa qua tinh chế, nên còn thô ráp của sự thật trần trụi.

*

*      *

 Sau khi nghỉ Tết Qúi Sửu - 1973 đoàn rời Trạm CỨT . Ra khỏi bãi khách, ngoảnh lại cũng thấy có cổng chào với khẩu hiệu : 

Nhiệt liệt chào mừng các chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng  thắng lợi trở về. 

Trên từng chặng hành quân khoảng giữa đường hai trạm giao liên là đoàn vào hay gặp đoàn ra. 

Đoàn vào đông đúc, trẻ măng, đồng phục xanh lá cây, hành trang nặng nề ,vũ khí nai nịt đầy mình. 

Đoàn vào đôi khi cũng đi bằng một vài cái cáng, họ đi bằng chân và vai của các chiến sĩ giao liên. 

Hỏi ra mới biết đó là những người quan trọng, là sĩ quan hoặc cán bộ cao cấp. Họ ăn riêng, ngủ  riêng, với tiêu chuẩn riêng trong trạm. 

Đoàn ra thường quân số ít với đủ loại màu sắc quần áo, gầy gò ốm yếu, thương tích, cụt tay, cụt chân, có người  phải khiêng võng, các chiến sĩ giao liên có trách nhiệm di chuyển và bàn giao họ từ trạm nọ  sang trạm kia. 

Người ra thường vai đeo bòng, đồ đạc gọn nhẹ, tay đeo đồng hồ tự động, vai khoác đài bán dẫn, lại còn bảo đám đi vào:

- Giờ mới đến đây thì vào chỉ còn nhặt ống bơ???. 

Chiến tranh chứ có phải cuộc dạo chơi đâu mà  đi nhặt nọ nhặt kia, các anh vô tình đang thi vị hóa cuộc chiến tranh đầy máu và nước mắt mà không hay biết.

Việt Dậu( K16 VL) nghiến răng kèn kẹt bảo:

- Chúng mình phải đi nhanh lên, đồng bào miền nam ruột thịt đang ngày đêm rên xiết dưới gót giày Mĩ Ngụy.??? Ha  ha

Tố Hữu viết cho người vào nam : 

Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước 

Mà lòng phơi phới dậy tương lai(???)

Với những người sinh viên xếp but nghiên đi lính còn có bài hát với câu:

 " Một cuộc hành quân mang ở trên lưng những Dự án tương lai thành phố mới ".

Một sự động viên theo kiểu nói lấy được.

Về sau ra học lại, đi công tác mới biết không có cách làm Dự án như thế.

Đôi khi đoàn ra lóc nhóc trẻ con từ 10-15 tuổi trai gái đủ cả với những khuôn mặt đa dạng sang chảnh, lam lũ , ngây thơ. 

Mà khôn lắm, biết xin những đồng tiền miền bắc còn sót lại của người đi vào, không thấy tặng lại các anh tiền miền nam chưa tiêu hết.

Đám sinh viên sửa lại thơ cho các em: 

"Xẻ dọc Trường sơn đi nước ngoài

Mà lòng phơi phới dậy tương lai."


Đoàn vào , đoàn ra đều nghỉ ở Bãi khách Trạm giao liên nhưng thường cách biệt, không giáp mặt nhau. Sáng sớm đoàn vào rời khỏi bãi rồi thì đoàn ra mới khởi hành ngược về bắc. 

Họ chỉ gặp nhau trên đường , ai biết việc của người đấy, không mấy khi được trò chuyện. Có lẽ đây là chủ trương của cấp trên , càng kín càng tốt. 

 Không biết Hố đen của vũ trụ nó thu hút vật chất thế nào nhưng trên đường hành quân ở Trường sơn vào nam tại giai đoạn này tôi được chứng kiến con người, vật chất hút vào nam tấp nập mà ra bắc thì nhỏ giọt lơ thơ. 


*

*      *

 Mọi người đi Trường sơn hẳn còn nhớ, sáng ra ngoài tiếng gà rừng gáy le te, vượn hú vang rừng, chim chóc líu lô. Cũng là báo hiệu khởi đầu ngày mới vui tai rộn ràng. 

Còn hai con chim chỉ nghe tiếng mà không nhìn thấy gây ấn tượng, hót vang lừng mà lại rất nhịp điệu " Bắt cô.... trói cột. Bắt cô.... trói cột" có ông lính dịch là ( Cấp trên bắt buộc . Đéo đi đéo được) và " Còn...... khổ. Cò ò ò òn khổ ổ ổ..."  rất buồn bã. 

Hành quân leo dốc mà nghe hai con này hót tức không chịu được. 

Trong bãi khách còn đếm tiếng tắc kè, tắc kè. Chẵn tiếng là trời  mưa , lẻ tiếng là nắng. Hai ông lính cùng đếm, ông bảo chẵn ông bảo lẻ cãi nhau loạn cả lên. 

Trong rừng còn mấy con sau cũng gây sợ. Đó là con vắt rừng. Vắt rừng màu nâu nhạt trông giống con đỉa nhưng sống trên cạn, trên lá cây nhất là rừng tre nứa. 

Hôm nào trời mưa hay ẩm ướt người bước đi trong rừng hàng đàn vắt ngóc đầu lên đánh hơi hướng về chân người trông như mạt sắt khi đưa nam châm vĩnh cửu lại gần. 

Nó cũng có thể quăng trên cành lá xuống người rồi lặng lẽ hút máu đến no kềnh mới buông , do miệng vắt có một loại dịch chống đông nên vết cắn máu chảy be bét mà ta không hề biết. 

Có lần đi tắm thấy xung quanh nhiều vắt , tôi lội ra giữa suối có mấy viên đá có thể ngồi tắm, nghĩ vắt không ra tới, ai dè còn nhiều vắt hơn, cứ dựng đứng cả lên, rất ngán.

 Con bọ cạp nhiều người đã biết vì xem Thế giới động vật, màu đen tuyền hoặc ánh xanh cổ vịt nghe nói đốt chết con trâu. Con này hay trốn dưới cây mục ẩm nên ít gặp.

Con rết ( rít) to dài như đôi đũa cả nấu cơm màu cánh gián đen sậm ngả đỏ rất ấn tượng. Nó mà đốt thì bất kể giờ nào phải nghe tiếng gà gáy sáng mới hết đau buốt. Hoặc phải dùng rãi con gà trống bôi mới khỏi.

Con ve lại nhỏ bằng hạt đỗ đen, khi đốt xong  nó không bay ra mà chìm cả người vào thân thể, coi như vật chủ để sống kí sinh suốt đời. Lúc lấy nó ra không cẩn thận để lại vòi đốt thì vết thương lâu lành có thể thối thịt .

Con mối rừng to gần phân nửa cái đầu đũa ăn cơm. Một con không là gì nhưng là một đàn, một tổ là mối họa lớn, đàn mối di chuyển trong rừng nghe tiếng rào rào. 

Bộ đội hành quân mà gặp đàn mối đi ngang thì ai nấy sợ hãi nhảy như loi  choi. Các anh đi trước kể chuyện có ông lính sốt rét ác tính không đi được, nghỉ lại trong rừng nằm trên võng hy sinh, mấy hôm sau anh em đi tìm thấy mối ăn chỉ còn bộ xương. Thật kinh sợ.!!!

Giao liên nói không có các con thú lớn vì bom đạn súng nổ ầm ầm, chúng chạy đâu hết cả. Có đoàn gặp voi mấy bố giải phóng đem cả B 40 ra quất , con gì mà sống được ???

*

*      *

 Hành trang của đội quân đi bộ gồm những gì? Đó là câu hỏi mọi người hay quan tâm: 

Hai bộ quần áo dài , hai bộ đò lót, ngắn, , một tấm tăng che mưa, một màn tuyn,một võng dù, một tấm đắp, khăn mặt. một hăng gô cơm, một bi đông nước, một bát sắt B52 ăn cơm,1 kg ruốc thịt (0.50 Kg thịt trộn với  0.5 Kg muối) . 0.1 kg mì chính, một ít kim chỉ, thuốc lá, thuốc lào tất cả bỏ trong ba lô;  

7 ngày gạo ăn tương đương 5kg bỏ trong ruột tượng. 

Một khẩu súng , 4 băng đạn, một xẻng đào đất , hai quả lựu đạn mỏ vịt, hai bánh thuốc TNT , kíp và dây cháy cháy chậm cán bộ giữ vì sợ lính dùng không đúng mục đích, bông băng cá nhân. 

Một xanh tuyarông rộng bản cài quanh bụng để treo các thứ lỉnh kỉnh trên. 

 Một tiểu đội có một nồi 30 dùng nấu cơm , hai xoong nhỏ hơn nấu canh và thức ăn mặn.Tổ ba người có một dao găm, một bật lửa. Người mang nồi là người đến phiên trực nấu cơm.

Tổng cộng chừng 30 kg khoác lên vai mỗi người lính .

Môi ngày tiểu đội 12 người, phân công nhóm ba người đến phiên trực dậy lúc 4g00 sáng nấu 6kg gạo ( 0.5 Kg gạo / người  cho hai bữa), thức ăn tùy điều kiện cụ thể ,5g00 ăn sáng, lấy cho mỗi người một hăng gô cơm để ăn trưa, một bi đông nước uống dọc đường. 

Đi bộ từ 6 giờ sáng mỗi giờ nghỉ 10 phút. 11g 30 ăn trưa 30 phút nghỉ 15,20 phút  đi tiếp đến 15g30 - 16g00 là tới Bãi khách của Trạm giao liên kế tiếp.  

Ngày đi trung bình 8 giờ x 4km/giờ  đạt khoảng 30 km / ngày

Đến trạm mới , phân công phiên nhóm khác lấy nước, kiếm củi nấu ăn bữa tối và bữa sáng hôm sau . 


Người nào nhỏ con, yếu được phân trực nấu trước để nấu phần gạo của mình cho nhẹ bớt. Thời tiết khô ráo còn đỡ, hôm nào mưa rừng thì nấu bữa cơm cực trần đời. 

May mà ai cũng biết đào và nấu bếp Hoàng Cầm nên củi ướt mà khói trắng cứ là đà mặt đất rất đẹp, nếu có máy ảnh chụp lại thì có những tác phẩm nghệ thuật chứ chả chơi. 

Máy bay không thể thấy dòng khói nào từ rừng bốc lên, rất an toàn.

Cơm thiếu rau thì khô lắm, quanh đi quẩn lại anh em phải lấy rau môn thục, rau tàu bay, lá lạc tiên, lá bứa nấu canh với ruốc gọi là canh bông băng ( Vì các sợi thịt giống như bông băng, trông ghê ghê ) . Người đi vô đi ra như nước chảy , cây nào mọc kịp.

Trên đường hành quân anh em thường uống nước gạo rang, có những chỗ sâm cau, hà thủ ô, ngũ gia bì nhiều tha hồ lấy mà nấu nước uống.

Thèm đồ ăn tươi lắm, đến trạm nào đó quên rồi, mấy ông dân tộc lấy cả màn tuyn quây bắt nòng nọc nấu canh. 

Rồi gặp đàn vượn đang chuyền trên cành, các ông lấy súng bắn trúng con mẹ, trước khi rơi nó trao đứa con cho vượn khác rồi rớt xuống như một đứa trẻ 6,7 tuổi chân tay loằng ngoằng, kinh hãi . 

Ai nhìn cái cảnh đấy thấy đau lòng, ngon gì mà ngon.

Thật là tàn nhẫn. 

Chiến tranh, miếng ăn làm cho tâm hồn một số người trơ lì và chai sạn. 

Thật là không đẹp mà cũng chẳng vui.


*

*      *

Đi bốn ngày được nghỉ một ngày tắm, giặt quần áo . 

Ở Trường sơn chừng một tuần trên đường đi lấy gạo một lần.Thực phẩm khi có khi không, có thì rất ít.  Có trạm phải lấy đậu xanh thay gạo,cũng ngâm giá, nấu canh đỗ ăn vài bữa rất sợ. 

Rồi có trạm lĩnh gạo nếp Lào nấu ăn không quen. Cứ là phải gạo tẻ, có khi hết gạo phải nấu cháo ăn vài bữa. 

Giang hồ ta là giang hồ vặt

Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà.

Hay 

Ta đi ta nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.


Cộng đồng người Việt ngày xưa ít chịu đi xa mới có những câu thơ níu kéo như thế, giờ thì đã khác, họ có mặt ở nhiều ngóc ngách trên trái đất này.


Đồng tiền vô dụng, có cũng chẳng ai dùng. 

Đoàn quân thấy rõ ràng thực tế một ví dụ sống động xã hội nguyên thủy không dùng tiền mua bán. Chỉ dùng vật đổi vật tùy theo mỗi bên cho đó là ngang giá. 

Theo chỉ dẫn của cán bộ huấn luyện hay người đi B về đa số các anh lính đều có chút hàng xén như ghim băng, gương nhỏ, đá lửa, kẹp tóc, ảnh người đẹp như Ái Vân là số 1, ảnh  Bác Hồ... trong ba lô.

Tất cả các món đồ đó đều là thứ tối cần thiết trong rừng, là sản phẩm làm đẹp cho các cô gái hoặc là vật trang trí, món ăn tinh thần cho dân bản địa, có thể đổi được quả bí, quả bầu, mớ rau với người dân tộc để có chút chất tươi. 

Đổi hết rồi có anh mang cả ảnh bố mình ra đổi, nói là ảnh Bác Hồ hồi còn trẻ, thật hết biết.

Thứ đắt giá hơn như vải vóc , tăng , võng , vỏ chăn có thể đổi được chó, gà, ngan, vịt, cá . 

Thèm thịt quá các bố rọc đôi vỏ chăn đổi chó lợn, hai ông chung nhau ba quần lót đem một cái đổi gà vịt chén.

Đến một trạm nam Lào có tiểu đội đổi một quần đùi lấy con cá to 6-7 kg. Nấu ăn anh em xì xụp sung sướng lắm, cuối bữa lảo đảo say hết nằm la liệt. 

Cảm giác mạnh hơn say rượu, phải huy động khiêng tất cả vào trạm xá giao liên cấp cứu. 

Người ta cho biết đó là con cá say, nó chuyên ăn qủa độc của một loại cây mọc ven sông. May không có ại bị sao.

Có hôm đang chén cơm trong bãi khách có con rết to bằng chiếc đũa cả dài 30 cm chạy qua, anh em hò nhau bắt đem nướng ăn luôn với cơm, thịt ngon như tôm hùm.

Đoàn quân thì cũng có người nọ người kia. Trong ăn uống có người từ tốn nhưng cũng có kẻ tục tằn, rất xấu. 

Đồ Toại ( 13 Kinh tế) quyết tâm dạy cho anh ấy một bài học. Gọi là Đồ Toại vì anh rất hiểu văn học và các tích cổ, thường dẫn các điển tích trong lúc trò chuyện.

Ngày nghỉ thường rủ nhau đi vô rừng xung quanh bãi khách hay vào Trạm. May mắn gặp nương sắn, cây quả gì ăn được thì lấy về ăn rồi chia cho anh em. 

Có khi đến một lối mòn định ghé vào thì thấy mấy cái biển : CÓ MÌN nên đành quay ra. Nhưng đó chính là nương sắn , cắm biển để dọa mấy ông tân binh thôi.

Khoảng 10 giờ sáng sắp đến giờ ăn , Đồ Toại cùng vài anh em đi nghênh ngang trong rừng về, mồm nhai nhồm nhoàm củ gì đó rất ngon mắt. 

Thấy vậy Cồ (Địa chất- đã đổi tên) bảo : 

- Anh Toại có gì cho em ăn với.

- Đ*o cho, mày ăn tham lắm!

- Cho em cắn một miếng nhỏ thôi.

- Thôi được, cho mày một miếng, nhỏ thôi đấy.

Đồ Toại lấy củ sau lưng ra dứ dứ :

- Cắn theo cữ tay tao này nhé. Rồi đưa lên mồm Cồ.

Cồ ngoạm một miếng to nhai rôm rốp . 

Bỗng Cồ  phùng má, trợn mắt phun ra phì phì. Mặt mũi mồm miệng sưng vù. 

May chưa nuốt, từ cổ trở lên biến dạng không thể nhận ra Cồ mười phút trước.

Lập tức anh em đưa Cồ vào Trạm xá giao liên cấp cứu, chiều tối anh được chữa khỏi về lại đơn vị kịp cho buổi hành quân hôm sau. 

Một bài học đích đáng, một trò đùa tai hại may mà chưa có hậu quả đáng tiếc. Câu chuyện râm ran suốt trên đường dây.

Chuyện ăn uống, sinh tồn trong rừng, dưới sông nước đáng lẽ phải là mục rất rất quan trọng trong huấn luyện bộ đội cũng như trong giáo dục học sinh. 

Ví như cách thoát khỏi rừng khi bị lạc, cách làm việc nhóm, cách tạo ra lửa hay đơn giản là cách mắc võng tăng ra sao để mưa rừng vài ba ngày cũng không làm ướt hai đầu võng cho giấc ngủ êm ái. 

Rồi là trước khi đi phải kiểm tra vị trí của mình để không quên đồ đạc. Có anh ngái ngủ cố nằm võng vài phút , khi đoàn quân rùng rùng chuyển động thì bật dậy khoác ba lô đi. 

Tới trạm mới ngẩn người vì để quên võng. Trong rừng mà ngủ dưới đất thì khó khăn bội phần, rất dễ bị côn trùng, rắn rết... cắn. Thậm chí ốm đau nguy hiểm .

Cái quan trọng như thế lại bị coi nhẹ , cứ hay chú ý học tập các chuyện trời biển cao xa này nọ. 

Các kỹ năng sinh tồn thường là truyền miệng trong câu chuyện hàng ngày, phải là  người tinh ý mới học được vì nó không thành hệ thống.

Đai cương là vào rừng những thứ gì cây, quả, lá chua, đắng , chát là ăn được không phải hỏi. 

Những thứ nào rực rỡ, sặc sỡ, ngọt, bùi đều phải cẩn thận hỏi han người đi trước, có kinh nghiệm nếu không phải thử trước khi dùng. 

Cái này nó cũng giông giống cuộc đời :

"Mật ngọt chỉ tổ chết ruồi
Những nơi cay đắng là nơi thật thà". ( Ca dao)

*

*      *

Đến Nam Lào có hôm chúng tôi cứ đi lên dốc, lên dốc mãi bở hết hơi tai từ sáng sớm  đến quá trưa mới được nghỉ chân ăn cơm. 

Nhìn lại đường đi thấy vực sâu thăm thẳm, nhìn về phía nam là cao nguyên bằng phẳng rộng lớn tít phía chân trời, hỏi ra mới biết đó là cao nguyên BOLOVEN . 

Cả đoàn dừng lại, mở cơm ra  thong thả dùng bữa . Tôi cảm thấy một không gian rộng lớn, thời tiết mát mẻ , gió thổi dìu dịu, lòng người thơ thới, như trên tiên cảnh.

Người dân tộc Lào trên dãy Trường sơn không rõ là Lào Thum hay Lào Sủm , họ ở cũng thưa thớt theo từng nhóm trong rừng già. 

Thanh niên nam nữ ít gặp hơn, chúng tôi gặp chủ yếu là người già và phụ nữ có con. Thường thì ai cũng hút thuốc kiểu điếu cày nhưng thân điếu to từ 8-10cm. 

Phụ nữ mang con nhỏ thì không mặc áo chỉ mặc váy hoăc sarong, vú vê thỗn thện ngồi bên mấy thứ rau quả đổi chác với lính. Kinh tế thị trường sơ khai là đây. 

Nơi đây gần thị trấn Atôpơ nên đã có thuốc lá A lào, Con két, Cotab lính hút phì phèo thơm lừng.

Trên đường cũng đôi khi gặp nhà mồ có ống bương lớn để đổ cơm canh xuống mồ, mấy cái bát mẻ, cuốc cùn , dao cùn....để  trên mồ , tùy gia cảnh mà có hay không có tượng gỗ xung quanh nhà mồ . 

Đó là họ chia của cho người chết và chỉ cúng trong một thời hạn nhất định, sau đó làm cái lễ bỏ mả. 

Đến đó là hết , người chết và người còn sống không ràng buộc chi nữa, cát bụi lại trở về cát bụi. 

Cái này cũng giống như phong tục của đồng bào Tây nguyên ở Việt nam.


*

*      *


Khi đó Campuchia bị phái Lon non lật đổ Xihanuc nên ông bà Xihanuc  về thăm Campuchia đi trên đường dây 559 không thể về theo ngả Phnompenh

Vua và Hoàng hậu về thăm quê hương mà . Ông bà đi cùng đám hầu cận bản xứ có sự bảo trợ của Việt nam trên suốt hành trình. 

Họ đi bằng xe cơ giới nghỉ theo từng chặng của trạm giao liên. Riêng ông bà mang nước ăn từ Hà nội, mang theo bột, lò làm bánh mì thậm chí cả nhà vệ sinh dùng khi cần . Vua và Hoàng hậu mà lỵ.

Về đến Campuchia tâp trung dân chúng cho nhà vua nói chuyện. Mít tinh xong, giải tán thì bị B52 rải thảm nên cũng không có thiệt hại gì lớn

Tôi biết thông tin về chuyến về quê cuả ông bà Xihanuc vì ngay trạm 79 tình cờ trên bãi khách tôi được gặp ông chú ruột em bố tôi. Ông là Chính ủy Binh trạm.
Chú cho tôi vào thăm Binh trạm , nghỉ với chú một tuần. Ông giới thiệu nơi con suối với cái thau nước dúm dó mà nhà vua và hoàng hậu dùng múc nước rửa mặt. Nơi nhà ông bà nghỉ lại và những thông tin ít ỏi về chuyến đi.
Ông còn cho đi cùng đến các trạm để chỉ huy công việc trong đó có việc quyết định dùng cưa thợ mộc (Vì không có cưa y tế )để cắt chân một thương binh để cứu tính mạng anh ta.

Ông có quyền kí giấy cho ai ở ai đi nhưng với đứa cháu ruột ông bảo thôi cháu đi khỏe nhé . Cán bộ ngày xưa là thế .

Từ trạm này trở đi không hiểu sao máy bay C130 bay è è suốt đêm dùng kính hồng ngoại quan sát ban đêm để bắn xe cơ giới và thuyền máy trên sông vận tải hàng hóa vũ khí. 

Một hôm Đoàn đang hành quân, chuyện trò râm ran ông đai đội trưởng chạy dọc hàng quân nhỏ nhẹ:

- Tôi xin các ông, nói ít thôi . Xung quanh đây toàn cây nhiệt đới đấy.

Lính mới có biết gì , cứ bình thản như không.

Tự nhiên nhìn lên , có tốp ba chiếc B52 bay đến nho nhỏ như thứ đồ chơi trên trời .  Nó thả ba loạt bom liền cách đoàn quân chừng 3-400 m quật ngã cả một cánh rừng . 

Chỉ lúc nghe tiếng bom rít lên kít kít mới biết  thì chạy đâu được nữa, chệch thì thoát mà trúng thì chết

Không ai bị thương. Mặt ông nào cũng xanh như tàu lá, đi rón rén im như thóc.

Hóa ra cây nhiệt đới là một loại thiết bị điện tử dài khoảng ba gang bé bằng cái chuôi liềm, ném từ máy bay cho cắm xuống đất, trên đầu xòe ra bốn cánh chính là anten thu phát tiếng động xung quanh. 

Nó thu tiếng động xung quanh phát về trung tâm theo tọa độ cây, tiếng động được phân tích là tiếng xe, máy hay tiếng người. 

Trung tâm lệnh cho B52 bay đến toạ độ xác định mà rải bom rồi bay đi. Chiến tranh điện tử là vậy, hai bên đâu có nhìn thấy nhau.

Dân ở dưới đất rất sợ, cán bộ mang mấy cái lọ ra bảo đây là công sự bà con ngồi, dùng một nắm ngô hạt rắc như ném bom mà có thấy hạt nào lọt vào chai đâu, vậy là không chết , không sợ. 

Cán bộ còn bảo thêm Mỹ sắp thua rồi , hết tiền rồi vì mấy cái máy bay chưa làm xong vẫn phải mang ra bay. ( OV 10 là máy bay hai thân , rỗng ở giữa). 

Người đồng bào dân tộc rất dễ tin, ngây thơ và thật đáng yêu .

Chính trong đợt này ông Đặng Tính, Chính ủy Đường dây 559 bị hi sinh.

*

*      *

Gần đến Ngã ba Đông dương nơi một con gà gáy ba nước đều nghe thì đoàn chúng tôi đến Trạm 79.  chúng tôi dừng tại Tram này nghỉ gần một tháng. 

 

Đây có thể nói là Trạm Giao liên đẹp nhất Đường dây 559, Trạm nằm trải dài bên hữu ngạn sông Sê koong thuộc Lào, dưới sông là các ghềnh đá nước trong xanh màu ngọc chảy hiền hòa, cá nhiều vô kể. 

Đổ gạo vào nồi cho nước vào vo đổ nước đi, cá bu lại rất nhiều: kề nòng súng AK sát mặt nước bắn một phát tha hồ vớt cá mà ăn. 

Các hõm nước dưới sông cá rất nhiều , anh em bộ đội mang thuốc nổ đánh cá, do sơ xuất một anh hi sinh . 

Mấy hôm sau nổi xác lên, dân Lào  vào báo binh trạm mới đưa lên bờ chôn cất. 

Đây là trường hợp hi sinh đầu tiên của lứa sinh viên nhập ngũ 9/1972.

Trên bờ đất pha cát rất nhiều hà thủ ô, sâm cau, củ mài tha hồ đào nấu nước uống hay luộc. Có những củ mài nặng cả chục kí ăn sâu 2 m vì đất phù sa mềm rất tốt.

Có lần vào rừng quanh bãi khách chơi tôi thấy một tổ ong mật lớn bằng nửa cái chiếu cá nhân cách mặt đất khoảng 1m . Mấy anh em vun lá khô bên dưới đốt rồi chạy, 30 phút sau quay lại, mật chảy ròng ròng húp thoải mái , đã đời. 

Đến đây mới được 2/3 quãng đường mà bài cũng đã dài. 

Xin hẹn dịp thích hợp 

Đoàn quân lại đi

........

*

*      *

Đoàn quân cứ rồng rắn như thế, ngày đi đêm nghỉ chẳng bao lâu đã tới Tràng an (miền nam) .

Con đường vạn dặm đã vượt qua bằng đôi chân của sức trẻ ròng rã chín tháng trời, từ Thái nguyên tháng 1/1973 đến Kiến phong tháng 9/1973. 

Sau này đánh giá, đoàn chúng tôi đi lâu thế lại may mắn. Các bạn đi ô tô tháng 1/1975 vào tới chiến trương có đúng 15 ngày rồi lao vào cuộc chiến ngay. 

Đoàn 2013 là một trong những đoàn hiếm hoi được du lịch hành xác như vậy. 

Bao nhiêu cực khổ gian nan dọc đường đã vượt qua như không có gạo nấu cơm  vài ngày, lần bị B52 ném bom quá kinh hoàng. 

Cũng có lúc thư thái ngắm trăng rừng sáng tỏ lung linh bên sông Sê kông nước trong màu ngọc, đẹp như một giấc mơ.

Trải qua cuộc chiến tàn khốc , xóa bỏ một chế độ tham nhũng thối nát để xây dựng nên một xã hội tốt đẹp hơn không biết có ông nào nhặt được ống bơ gì không hay chỉ mang trong mình những vết thương, sức ép bom hay sốt rét rừng ??? 

Một số chúng tôi may mắn được trở lại quê hương tiếp tục cuộc sống.

Còn bao nhiêu bà Mẹ ngày đêm tựa cửa ngóng trông trong vô vọng những đứa con thân yêu rứt ruột đẻ ra đã không có cơ hội trở về. 

Con các Mẹ mãi mãi nằm lại  nơi xa lạ, tận chân mây cuối trời. 

Hôm nay ghi chép lại một phần nhỏ những câu chuyện, hình ảnh đoàn quân lính sinh viên mang phiên hiệu 2013 chúng ta đã trải qua trên đường Trường sơn và coi như đó như một nén tâm hương tưởng nhớ các anh.

Tiến tới Kỷ niệm 50 năm ngày nhập ngũ 

13/9/1972 - 13/9/2022


NBS

6/9/2021


Ảnh  :

Trong rừng Trường sơn

Trở về tuổi thơ ở Trường sơn

 Về thăm chiến trường xưa
Gặp gỡ ở Sài gòn